Trong các hoạt động du lịch, các hoạt động hướng tới thiên nhiên và du lịch sinh thái đang là mối quan tâm lớn của khách du lịch Nhật Bản. Nhu cầu du lịch sinh thái của người Nhật bắt nguồn từ ý thức bảo vệ môi trường rất cao của người dân. Tiêu dùng các sản phẩm thân thiện với môi trường, trong đó có cả sản phẩm du lịch đã trở thành một phần trong giá trị sống. Nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch sinh thái đã được chính phủ, cộng đồng địa phương, các công ty du lịch… đưa ra và thực hiện khá hiệu quả. Nhờ đó, ngành du lịch sinh thái ở Nhật Bản đã có sự khởi sắc, đem lại thêm nguồn thu cho đất nước, quảng bá và tạo dựng uy tín và vị thế của Nhật Bản ra nước ngoài.
Hàn Quốc được đánh giá là một trong những nước thành công trong công tác bảo tồn, phát triển văn hóa truyền thống ở khu vực và trên thế giới. Với chiến lược ưu tiên bảo tồn, phát triển văn hóa truyền thống, xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc, gia tăng năng lực cạnh tranh văn hóa quốc gia trong thế kỷ XXI, Hàn Quốc chú trọng đến công tác giáo dục văn hóa truyền thống cho các giai tầng xã hội, đặc biệt là học sinh trong trường phổ thông. Bài viết tập trung phân tích, đánh giá hoạt động giáo dục văn hóa truyền thống cho học sinh trong trường phổ thông trên các mặt: chính sách, tình hình giáo dục văn hóa truyền thống trong trường phổ thông theo chương trình giáo dục quốc gia và giáo dục di sản văn hóa, từ đó rút ra một số nhận xét, đánh giá.
Từ năm 2002, Chính phủ Nhật Bản đã bắt đầu nghiên cứu chiến lược thương hiệu hóa địa phương nhằm phát triển kinh tế các địa phương dựa trên việc phát huy các nguồn lực kinh tế của chính địa phương. Bài viết* giới thiệu định nghĩa, cấu thành và điều kiện bảo hộ/đăng ký nhãn hiệu tập thể địa phương và chỉ dẫn địa lý hiện hành của Nhật Bản, so sánh sự khác biệt giữa hai chế độ này. Đặc biệt, bài viết sẽ dựa trên một số trường hợp đăng ký “kép” cả hai hình thức bảo hộ này để chỉ ra một số lưu ý đối với những người nộp đơn, với kỳ vọng sẽ là những kiến thức có giá trị tham khảo hữu ích đối với các địa phương và các doanh nghiệp, người sản xuất nông lâm thủy sản của Việt Nam khi muốn thâm nhập thị trường Nhật Bản và đang tìm kiếm một hình thức bảo hộ hữu hiệu đối với sản phẩm gắn liền với địa phương mình tại thị trường Nhật Bản.
Những ai quan tâm tới tình hình thị trường lao động Nhật Bản đều có thể nhận thấy xu hướng gia tăng lao động không chính thức những thập niên gần đây. Xu hướng này một phần do người lao động cần những hình thức tuyển dụng linh hoạt, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do các công ty muốn cắt giảm chi phí lao động để trụ vững trong quá trình suy thoái kinh tế. Bên cạnh đó, sự đãi ngộ giữa lao động chính thức và không chính thức còn mất cân đối, cơ chế chuyển đổi lao động tại các công ty còn chưa hoàn thiện. Từ năm 2009, trong bối cảnh suy thoái toàn cầu, nền kinh tế Nhật Bản lún sâu vào khủng hoảng. Thị trường lao động sa sút, nhiều tập đoàn hàng đầu của Nhật Bản phải cho nhân viên nghỉ việc hoặc chấm dứt hợp đồng, dẫn tới sự gia tăng lao động không chính thức. Lao động không chính thức hiện nay có rất nhiều tầng lớp như thanh niên, người làm nội trợ, người có tuổi
“Tứ giác kim cương” hay còn gọi là “Bộ tứ” được hình thành từ ý tưởng về một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở của cố Thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzo vào năm 2007. Bộ tứ bao gồm Mỹ, Australia, Nhật Bản và Ấn Độ hợp tác với nhau trên các lĩnh vực an ninh truyền thống và phi truyền thống nhằm mang lại hòa bình, ổn định và thịnh vượng cho khu vực. Các hoạt động của Bộ tứ như tập trận chung, hợp tác an ninh giữa các thành viên, đảm bảo tự do hàng hải hay bàn thảo về cơ chế hợp tác ứng phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, hợp tác sản xuất, phân phối vắc xin, cứu trợ thảm họa, chống khủng bố… đã có tác động ở một mức độ nhất định đến an ninh châu Á. Trong phạm vi bài viết này tác giả đề cập đến sự hình thành, mục tiêu, các hoạt động của Bộ tứ trên các lĩnh vực và đánh giá tác động của Bộ tứ đến an ninh khu vực châu Á.
Bài viết nêu một số khái niệm cơ bản về thương mại điện tử của Hàn Quốc, Việt Nam và các tổ chức quốc tế, đồng thời chỉ ra sự khác biệt giữa thương mại điện tử và thương mại truyền thống. Tác giả đi sâu vào phân tích thực trạng phát triển thương mại điện tử của Hàn Quốc trên các khía cạnh như: quy mô thị trường mua sắm qua di động, quy mô và tốc độ tăng trưởng theo ngành của thị trường thương mại điện tử mô hình B2B, quy mô và tỷ lệ tăng trưởng của giao dịch mua sắm trực tuyến theo từng sản phẩm. Tiếp đến, người viết đưa ra một vài xu hướng phát triển của mô hình thương mại này trong tương lai.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 những năm gần đây tập trung chủ yếu vào sản xuất thông minh. Nhằm nắm bắt xu hướng thời đại mới, Chính phủ Hàn Quốc đang tích cực định hướng khu vực sản xuất thực hiện sản xuất thông minh để có thể tự động đáp ứng nhu cầu thị trường. Chính phủ Hàn Quốc hiện đang thúc giục các doanh nghiệp thích ứng với hướng đi mới bằng chiến lược “Đổi mới công nghiệp sản xuất 3.0” tập trung vào việc ứng dụng nhà máy thông minh giúp doanh nghiệp cải thiện quá trình tự động hóa, trao đổi dữ liệu và công nghệ sản xuất. Bài viết làm rõ thực trạng phát triển sản xuất thông minh trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc và đưa ra một số hàm ý chính sách cho Việt Nam.
Bài viết đánh giá thành tựu nổi bật cùng hạn chế trong quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc và bàn về khả năng nâng tầm quan hệ. Các tác giả nhận định, sự tin cậy lẫn nhau được củng cố, hợp tác kinh tế ngày một mạnh mẽ và giao lưu nhân dân ngày càng phát triển là những yếu tố chủ đạo khiến khả năng nâng tầm quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc lên “Đối tác chiến lược toàn diện” có nhiều triển vọng. Trong khi thành công trong lĩnh vực kinh tế là nổi bật, hợp tác quốc phòng vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển của quan hệ, do đó đòi hỏi hai nước có nhiều nỗ lực hơn nữa để mở rộng quan hệ trong lĩnh vực hợp tác này. Thời gian tới, tầm nhìn của các nhà lãnh đạo hai nước và các kế hoạch mang tầm vóc lớn hơn sẽ là nhân tố quyết định đến việc đưa mối quan hệ song phương phát triển theo hướng bền vững và toàn diện.
Từ trước đến nay, một trong những nhân tố vô cùng quan trọng bảo chứng cho sự tồn tại, phát triển thành công của thương hiệu quốc gia tại Hàn Quốc là quyền sử hữu trí tuệ. Hàn Quốc luôn coi quyền sở hữu trí tuệ là nhân tố không thể tách rời trong quá trình phát triển thương hiệu quốc gia. Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến nhiều lĩnh vực, song bài viết sẽ chỉ đề cập quyền sở hữu trí tuệ trong phạm vi liên quan tới những lĩnh vực nổi trội của phát triển thương hiệu quốc gia, đó là các lĩnh vực khoa học - công nghệ và văn hóa quốc gia. Trên cơ sở đó, quyền sở hữu trí tuệ được mở rộng hơn khi liên quan trực tiếp tới công nghiệp văn hóa và quyền lực mềm của Hàn Quốc từ đầu thế kỷ XXI đến nay.
Liên minh quân sự Nhật - Mỹ là một trong những mối quan hệ đồng minh điển hình trên thế giới về tính hiệu quả và bền chặt. Mối quan hệ này được thử thách trong Chiến tranh Lạnh, tiếp tục được củng cố và tăng cường trước những biến đổi của tình hình thế giới, khu vực trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI. Bài viết phân tích những nhân tố tác động đến hợp tác quốc phòng Nhật - Mỹ, thực trạng hợp tác quốc phòng Nhật - Mỹ từ năm 2012 đến năm 2022 nhìn từ các chuyến thăm cấp cao, sản xuất và mua bán vũ khí, các cuộc tập trận chung giữa hai quốc gia.