Yoshimoto Banana là một trong văn nữ đương đại nổi tiếng nhất hiện nay ở Nhật Bản. Cùng với Murakami Haruki, Murakami Ryu, cô có tên trong danh sách ba nhà văn Nhật Bản có sách được xuất bản ở nước ngoài nhiều nhất hiện nay. Xuất hiện trên văn đàn lần đầu tiên với tiểu thuyết đầu tay “Kitchen” ngay lập tức Yoshimoto đã làm nên một “Bananamaria” tạm dịch là “Hội chứng Banana” trên toàn thế giới.
Vốn FDI từ Nhật Bản đã trở thành một động lực quan trọng cho sự tăng trưởng nhanh chóng của Việt Nam, khi Nhật luôn đứng ở tốp đầu trong số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Các công ty xuyên Quốc gia (TNCs) Nhật Bản hoạt động ở Việt Nam ở nhiều lĩnh vực khác nhau với những mục đích và chiến lược khác nhau. Theo kết quả của những cuộc điều tra, khảo sát thực tế tại các doanh nghiệp Nhật, nhà xuất bản Toyo Keizai là một trong số những tổ chức của Nhật hàng hàng năm xuất bản kết quả khảo sát các doanh nghiệp của họ qua các phiếu điều tra gửi đến các doanh nghiệp hoạt động tại hải ngoại, trong đó có Việt Nam, có tới 42% số doanh nghiệp tham gia điều tra cho biết họ nhắm đến việc khai thác lực lượng lao động của Việt Nam, vốn có giá rẻ và có chất lượng.
Với “biện pháp 1 tháng 7 năm 2002”, Triều Tiên thực hiện cách tiếp cận chính sách quyết liệt hơn nhằm điều chỉnh giá cả sát với thực tế. Kết quả là, giá hàng hóa và tiền lương tăng đáng kể trong khi giá bán do nhà nước quy định cho nông sản được bãi bỏ có lợi cho mức giá do các thị trường của nông dân quyết định. Đồng thời, tỉ giá hối đoái tăng vọt từ mốc cố định trong thời gian dài trước đây 2,2 won một USD lên khoảng 150 won. Việc thực thi những biện pháp này đã khiến giá cả và tiền lương tăng mạnh- trong một số trường hợp cao gấp hơn 100 lần, quả thật đã gây ra cú sốc không chỉ đối với dân chúng mà còn với các quan chức nhà nước. Thực tế cho thấy là biện pháp này không phải là chương trình ứng biến mà là sáng kiến chính sách được thực thi sau một thời kỳ chuẩn bị kéo dài, bao gồm thảo luận sâu rộng về những lựa chọn chính sách kinh tế khác nhau từ giữa thập kỷ 1990 và các nghiên cứu chuyên sâu sau đó về những vấn đề liên quan. Trên một góc độ nào đó, có thể nói, đây thực sự là bước đột phá và mang hình dạng kiểu “liệu pháp trị sốc” mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trải qua trong quá khứ.
Từ những năm 1990 đến nay, mối quan tâm của người Việt Nam đối với Nhật Bản ngày càng tăng. Điều đó thể hiện qua việc xuất hiện một loạt các cơ sở đào tạo tiếng Nhật và đặc biệt là việc thành lập Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản (nay là Viện nghiên cứu Đông Bắc Á, thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) và Bộ môn Nhật Bản học tại Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Từ những năm 2000 đến nay, khuynh hướng chuyển từ đào tạo tiếng Nhật sang kết hợp đào tạo Văn hóa và Ngôn ngữ Nhật Bản hay đào tạo Nhật Bản học được nhiều trường đại học của Việt Nam quan tâm. Trong bối cảnh đó, chúng tôi muốn tìm hiểu một cách khái quát về lịch sử nghiên cứu về Nhật Bản nói chung, từ đó thử đưa ra một vài suy nghĩ về tình hình đào tào và nghiên cứu Nhật Bản ở Việt Nam nói riêng.
Đông Bắc Á từ lâu đã được coi là khu vực phát triển năng động nhưng đầy kịch tính trong các quan hệ chính trị đối ngoại và luôn là một bức tranh với hai gam màu sáng-tối khác nhau. Năm 2008 tuy vẫn là bức tranh đó nhưng màu sáng đã đậm hơn. Dưới đây chỉ điểm qua những động thái nổi bật nhất trong quan hệ đó giữa các quốc gia, lãnh thổ cùng khu vực và với Mỹ.
Những thay đổi gần đây của Triều Tiên làm cho nhiều người tin rằng Bình Nhưỡng đang theo đuổi mô hình cải cách kinh tế và mở cửa như kiểu Trung Quốc và Việt Nam. Dường như họ đang theo đuổi kinh tế thị trường. Điều này thể hiện cố gắng của Triều Tiên trong việc hồi sinh cho nền kinh tế kế hoạch tập trung vốn rất ốm yếu. Mặc dù cần nhiều thời gian hơn để thẩm định xu hướng phát triển này, song điều rõ ràng là Triều Tiên đang tái thiết nền kinh tế bằng cách áp dụng cơ chế thị trường cho dù đây chỉ là bước đi đầu tiên. Tuy nhiên, khả năng của Bình Nhưỡng duy trì cải cách phụ thuộc phần lớn vào môi trường xung quanh Triều Tiên, đặc biệt là quan hệ của Triều Tiên với Mỹ với Hàn Quốc và với các nước lớn khác trong khu vực. Điều này cũng có nghĩa là sự phát triển của Triều Tiên trong tương lai chứa đựng nhiều ẩn số.
Sự sụp đổ nhanh chóng của các tổ chức tài chính uy tín là một điều tồi tệ trong lịch sử tài chính của Mĩ. Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang ông Alan Greenspan cho rằng đây là một “tai biến” về tài chính mà “100 năm mới có một lần”. Nguyên nhân chủ yếu được cho là do sự thất bại của thị trường nhà đất và việc cho vay thế chấp tràn lan. Liệu Hàn Quốc có bị ảnh hưởng gì từ cuộc khủng hoảng này? Những ảnh hưởng ngắn hạn có thể không trầm trọng, nhưng trong dài hạn, sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu do cuộc khủng hoảng này chắc chắn sẽ gây hại đến sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc.
Năm 2008, đánh dấu 30 năm Trung Quốc cải cách, mở cửa nền kinh tế, cũng là năm có nhiều sự kiện tác động cả thuận lợi và không thuận lợi đến tăng trưởng kinh tế Trung Quốc. Động đất ở Tứ Xuyên tháng 5/2008 đã gây tổn hại lớn cho nền kinh tế; Olimpic thế giới được tổ chức tại Bắc Kinh liên quan đến việc Trung Quốc đưa ra kế hoạch lấy năm 2008 là năm khẳng định vị thế cường quốc của mình thông qua thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo, và thể hiện sức mạnh kinh tế với ước muốn vươn lên thành nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới. Cũng trong năm 2008, Trung Quốc chịu ảnh hưởng khá mạnh của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Theo đánh giá đưa ra vào cuối quý 3, mức tăng GDP cả năm của Trung Quốc chỉ đạt 9%, thấp hơn 2,4% so với năm 2007. Do tác động của khủng hoảng toàn cầu làm ảnh hưởng đến xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, mức tăng trưởng của Trung Quốc giảm dần theo quý. Trong nửa đầu năm, tăng trưởng 10,4%, đến hết quý 3 chỉ tăng trưởng 9%. Theo đánh giá của chúng tôi, trong cả năm, kinh tế Trung Quốc tăng khoảng 8,5%. Bên cạnh đó sự chậm lại này một phần cũng là hậu quả của chính sách thắt chặt tiền tệ mà Trung Quốc đã thực hiện trong năm 2007 nhằm kiềm chế lạm phát và ngăn chặn mức tăng quá nóng. Sản lượng lương thực cả năm 2008 của Trung Quốc đạt 511,5 triệu tấn.
Phùng Hữu Lan là một trong những người có đóng góp to lớn cho sự phát triển của triết học và nghiên cứu triết học Trung Quốc trong thế kỷ XX. Ông là người có công lớn trong việc hình thành Tân Lý học, cùng với Tân Tâm học và Tân Khí học cấu thành ba dòng tư tưởng triết học cơ bản ở Trung Quốc hiện đại với đặc trưng cơ bản là tiếp nối, dung hợp những tinh hoa của triết học truyền thống Trung Quốc với tinh hoa của triết học thế giới. Trong số các công trình triết học của Phùng Hữu Lan, những công trình nghiên cứu về lịch sử triết học Trung Quốc có một vị trí rất quan trọng. Trong số các bộ lịch sử triết học Trung Quốc đương thời của các tác giả như Hồ Thích, Lã Trấn Vũ, Hồng Khiêm, v.v., và các tác giả sau này như Nhiệm Kế Dũ, Trương Đại Niên, v.v., các bộ lịch sử triết học của Phùng Hữu Lan được giới nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc và thế giới đánh giá cao.
Trong quá khứ, thâm hụt thương mại của Hàn Quốc với Nhật Bản chủ yếu là do gia tăng nhập khẩu hàng hoá trung gian, bao gồm thép và các sản phẩm hoá chất; nhập khẩu nguyên liệu tăng do giá cả hàng hoá leo thang trên các thị trường quốc tế; và gia tăng nhập khẩu hàng tiêu dùng được hỗ trợ bởi đồng yên Nhật yếu. Tuy nhiên, những năm gần đây, lý do chính cho thâm hụt mở rộng là suy giảm nhanh xuất khẩu dầu mỏ và màn hình tinh thể lỏng (LCD). Đó là những mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai và thứ ba sang Nhật Bản. Cán cân thương mại về các mặt hàng linh kiện và phụ tùng, với tình trạng thâm hụt kinh niên, bắt đầu cho thấy dấu hiệu cải thiện gần đây, nhưng sự phụ thuộc lớn vào Nhật Bản về những linh kiện then chốt và nguyên liệu cần cho sản xuất sản phẩm mới đang phủ bóng đen lên triển vọng phá vỡ thâm hụt thương mại với Nhật Bản.