So sánh văn học Nhật Bản và văn học Việt Nam là một vấn đề còn khá mới. Trên tạp chí Nghiên cứu văn học, gần đây xuất hiện hai bài viết so sánh văn học cổ Việt Nam và Nhật Bản của Đoàn Lê Giang với tiêu đề: So sánh quan niệm văn học trong văn học cổ Việt Nam và văn học cổ Nhật Bản và Basho - Nguyễn Trãi - Nguyễn Du những hồn thơ đồng điệu. Trong bài viết này, chúng tôi muốn tiếp tục hướng nghiên cứu trên bằng việc so sánh nhân vật tha hoá trong truyện ngắn của hai nhà văn Akutagawa và Nam Cao.
Triết lý quản lý của người Nhật - Kaizen đã được áp dụng rộng rãi và thành công tại các công ty Nhật trong vòng hơn 50 năm qua, đóng góp lớn vào sự phát triển của từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế Nhật Bản. Tuy nhiên, tại Việt Nam, Kaizen chỉ mới phổ biến trong vài năm gần đây và chỉ một số ít các doanh nghiệp quan tâm đến triết lý quản lý này. Bởi vậy, Kaizen chưa trở thành một triết lý quan trọng, chưa được hiểu và áp dụng đúng tại các công ty. Bài viết này xin góp phần giúp các doanh nghiệp Việt Nam hiểu thêm về tầm quan trọng của Kaizen – CẢI TIẾN LIÊN TỤC cũng như cách thức triển khai triết lý này trong hoạt động kinh doanh.
Tư liệu sớm nhất và có giá trị nhất về người Mông Cổ được tìm thấy trong nguồn sử liệu của Mông Cổ “Mongol-un niguca tobciyan” (Kho tàng truyện cổ tích Mông Cổ) vào khoảng những năm 1240. Các nguồn sử liệu của Trung Quốc thế kỷ XIII cũng như những cuốn Biên niên sử của Mông Cổ từ những năm thế kỷ XVII-XX đều là những tài liệu quý giúp cho việc nghiên cứu lịch sử tộc người thời gian đó.
Trong các tác phẩm của các nhà khoa học và những nhà thám hiểm Nga, nhất là của các nhà Dân tộc học Nga, v.v…chứa đựng nhiều tài liệu dân tộc học về người Mông Cổ, cụ thể là về thành phần tộc người và những đặc điểm về lối sống của họ. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến thành phần tộc người, sự phân bố dân cư cũng như các quá trình hình thành dân tộc của cư dân Mông Cổ.
Các hình thức so sánh hay cách nói so sánh giữa cái này với cái kia, giữa việc này với việc kia về khả năng, sở thích, thời gian, mức độ v.v…trong tiếng Nhật phần lớn được sử dụng các mẫu câu để diễn tả. Vì vậy, người học cần nắm vững các dạng mẫu câu để nói, hỏi và trả lời. Nếu người học nắm chắc các dạng mẫu câu mà chúng tôi sẽ giới thiệu sau đây thì chắc chắn các bạn sẽ cảm thấy tiếng Nhật “kể ra cũng không đến nỗi …”, thậm chí khi sử dụng được sẽ cảm thấy dễ dàng và thú vị.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 (KHTC 2008) khởi đầu từ Mỹ đang ngày càng lan rộng và đe doạ nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Khác về bản chất với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á cách đây 10 năm, cuộc khủng hoảng này đang là thực tế đau đớn và thách thức lý luận về quan hệ giữa thị trường tự do và quản lý nhà nước trong cấu trúc vận hành kinh tế tư bản chủ nghĩa toàn cầu. Căn nguyên khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á được nhìn nhận như là sai lầm từ quản trị tài chính công và quản trị công ty với sự lan tràn “chủ nghĩa tư bản thân quen”, bất chấp các nguyên tắc quản trị tài chính và chuẩn mực kế toán quốc tế. Điều này đã bị phê phán kịch liệt bởi các chuyên gia kinh tế phương Tây hàng đầu. Trước sai lầm, nhiều quốc gia lâm nạn đã nhanh chóng điều chỉnh và cuộc cách mạng quản trị thực sự đã diễn ra tại một số nền kinh tế mới nổi. Do không phải là đầu tầu tăng trưởng kinh tế toàn cầu, các nền kinh tế Châu Á đã dần dần dập tắt lây lan và kết quả tích cực đã chứng minh cho nỗ lực của họ. Hàn Quốc là một trong những nước đã vượt lên khủng hoảng một cách ngoạn mục!
Từ bao đời nay, con người luôn sống trong những đơn vị tụ cư, dần dần những đơn vị tụ cư ấy được định danh là làng. Khi nhà nước ra đời, làng trở thành đơn vị hành chính với tính tự quản cấp cơ sở của nhà nước. Song song với quá trình hình thành và xuất hiện làng, văn hóa làng cũng ra đời. Một trong những biểu hiện cao quý của văn hóa làng là tục trọng xỉ. Xỉ 齒, nguyên nghĩa Hán Việt là răng, người ít răng là người già. Trọng xỉ, trọng người già, người sở hữu tri thức kinh nghiệm sống và lao động sản xuất. Nguồn gốc sâu xa của nó có xuất phát điểm từ cơ tầng nền sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh tính cần cù chịu khó, người dân luôn trông chờ vào sự ưu đãi của thiên nhiên. Mỗi độ đến mùa, người ta đều cầu cho mưa thuận gió hòa, nhưng để được toại nguyện mà chỉ dựa vào cầu cúng không thì chưa hẳn, yêu cầu thiết yếu nhất là họ phải nắm bắt được quy luật chuyển mùa của tự nhiên. Và như thế, chỉ có người già mới tích lũy được vốn kinh nghiệm này sau quá trình vật vã với thời gian. Người cao tuổi bắt đầu trở thành trụ cột cho niềm tin, sự hãnh diện và lòng tôn trọng của dân làng.
Thế kỷ XXI là thời đại của nền kinh tế tri thức, vì vậy, cuộc chạy đua giữa các quốc gia trở thành cuộc cạnh tranh về trình độ phát triển và khả năng sử dụng nguồn nhân lực. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra một cách sâu rộng càng làm cho tài nguyên con người có tầm quan trọng đặc biệt. Trong khi đó, nguồn nhân lực theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, đang là một trong những khâu yếu nhất của Trung Quốc khi chuyển dần sang nền kinh tế tri thức và toàn cầu hóa. Đi kèm sự yếu kém của nguồn lực con người, sự “bùng nổ” dân số, khan hiếm các nguồn tài nguyên tự nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng đang là những thách thách lớn đặt buộc Chính phủ Trung Quốc phải vượt qua nếu muốn duy trì phát triển. Hiện nay, Trung Quốc đang lựa chọn xây dựng nguồn nhân lực trong đó đặt trọng tâm là phát triển nhân tài làm giải pháp vượt qua thách thức, bảo đảm sự phát triển bền vững. Tại quốc gia đông dân nhất thế giới này, nhân lực, nhân tài không thiếu, nhưng làm sao phát triển hiệu quả nguồn lực con người vẫn là một bài toán khó đối với chính phủ.
Như đã biết, Nhật Bản đã phải trải qua một cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ nhất kể từ khi kết thúc Thế chiến thứ hai. Từ năm 1988, tỉ lệ tăng trưởng hàng năm của quốc gia so với tổng sản phẩm quốc nội thực tế (GDP) đã sụt giảm mạnh. Năm 1993, GDP thực tế của Nhật Bản giảm 0,2%. Đây là tình hình tồi tệ nhất kể từ năm 1974 khi GDP giảm tới 0,6% do ảnh hưởng của cuộc Khủng hoảng Dầu lửa lần đầu tiên. Mặc dù mức tăng trưởng vẫn tiếp tục được duy trì trong năm 1994 nhưng sự khôi phục nền kinh tế duy trì còn yếu ớt. Cuộc suy thoái kinh tế giai đoạn 1991-1993 đã thách thức tính hiệu quả của chính sách kinh tế, chính trị, đối nội và các hoạt động kinh tế mà đã phục vụ rất tốt cho Nhật Bản trong gần 4 thập kỷ. Sự suy thoái này cũng đồng thời thử thách độ tin cậy và khả năng áp dụng thực tiễn của cái gọi là mô hình Nhật Bản mẫu mực về sự phát triển trong kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh đối với các quốc gia khác. Thậm chí ngay khi nền kinh tế Nhật Bản đã hoàn toàn phục hồi khỏi sự suy thoái hiện tại, thì mức tăng trưởng dài hạn vẫn có vẻ như còn rất thấp.
Với quan niệm coi Đông Á là sự hợp thành bởi hai “Thế giới” Đông Bắc Á và Đông Nam Á, trong lịch sử giữa hai khu vực đã sớm có quan hệ trao đổi văn hóa và giao thương. Một số nhà nghiên cứu thường có khuynh hướng nhấn mạnh đến những mục tiêu, hệ quả hay thành tựu tiếp giao giữa các nền văn hóa và coi đó là nhân tố hằng xuyên, mục tiêu cơ bản trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Trong ý nghĩa đó, sự nối kết, giao lưu giữa các nền văn hóa luôn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy sự tiến triển, làm phong phú thêm đời sống văn hóa của mỗi nền văn hóa cũng như của toàn khu vực. Điều đó đúng và chúng ta cũng luôn quan niệm như vậy.
Vai trò ngày càng tăng của các nền kinh tế Đông Á trong nửa cuối thế kỷ trước là nhờ có sự chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường và chiến lược mở cửa. Sự kết hợp của 2 nhân tố này đã tạo nên điểm đặc thù duy nhất trong tăng trưởng kinh tế của Đông Á – đó là sự tăng trưởng nhanh, mạnh, bền vững và lan tỏa rộng khắp sang các nền kinh tế khác trong khu vực. Do những điều kiện phát triển kinh tế khu vực và thế giới thay đổi, cả hai nhân tố này vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong triển vọng phát triển kinh tế khu vực. Điều này được thể hiện rõ trong quá trình điều chỉnh cơ cấu các nền kinh tế Đông Á sau khủng hoảng tài chính 1997 và đóng góp rất quan trọng cho hình thái tăng trưởng hiện nay trong khu vực, đặc biệt các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc. Dĩ nhiên, những điều kiện tăng trưởng và phát triển của Đông Á phải trải qua những sự chuyển đổi căn bản ngay từ giai đoạn trước khủng hoảng kinh tế 1997. Những sự chuyển đổi này đã thể hiện nhiều vấn đề mới cho các nước kém phát triển hơn trong khu vực.