Murakami Haruki có mặt tại Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1997 với tiểu thuyết Rừng Nauy, ngay sau đó, với nhiều lí do, tiểu thuyết này đã bị cấm xuất bản. Vậy mà đúng mười năm sau, Murakami đã trở lại, tràn ngập các hiệu sách, không chỉ với Rừng Nauy mà còn với rất nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn khác liên tục được in trong một thời gian rất ngắn. Vậy đâu là nguyên nhân của “hiện tượng” văn hoá đặc biệt này? Phải chăng Murakami đến được với độc giả khắp năm châu cũng như độc giả Việt Nam là do một văn phong kể chuyện bậc thầy, một bản sắc văn hoá toàn cầu hoá, một cốt truyện hấp dẫn cả về sự kiện tình tiết lẫn dụng ý nghệ thuật?
Nhật Bản và Campuchia là hai quốc gia Đông Á có những mối liên hệ với nhau về điều kiện địa lý, lịch sử và văn hóa. Quan hệ giữa hai nước tuy đã được đề cập về một số khía cạnh nhỏ song về cơ bản chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu đúng mức, nhất là thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh. Bài viết này sẽ góp phần lấp dần khoảng trống trong các công trình nghiên cứu về quan hệ Nhật Bản – Campuchia. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bài báo, chúng tôi chỉ trình bày quan hệ Nhật Bản – Campuchia về hợp tác nông nghiệp nông thôn, giáo dục, nhân lực và y tế giai đoạn 1991 - 2007. Qua đó phân tích, lý giải, rút ra những đặc điểm và nhận xét của mối quan hệ hai nước trên các lĩnh vực nói trên.
Hợp tác và hội nhập kinh tế Đông Á từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai tới nay được coi là một quá trình phát triển tích cực, theo đó nền kinh tế khu vực đã tạo ra được sự gắn kết chặt chẽ trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là thương mại và đầu tư. Những thành quả liên kết đạt được hiện nay của mối quan hệ kinh tế Đông Á có sự đóng góp rất lớn của điều chỉnh thị trường và sáng kiến doanh nghiệp. Các mạng sản xuất khu vực đã tạo ra những mối liên kết chặt chẽ về cả thương mại và đầu tư cũng như chuyển dịch nhân lực. Đó là những nền tảng đặc biệt tốt cho sự hội nhập sâu rộng hơn của toàn khu vực Đông Á. Tuy nhiên, kể từ Khủng hoảng Tài chính Châu Á 1997 thực tiễn cho thấy một hướng phát triển và hội nhập kinh tế chủ động hơn theo hướng tăng cường mạnh mẽ sự phát triển các khuôn khổ thể chế. Về bản chất, khi nói đến hợp tác và hội nhập kinh tế Đông Á, người ta đặc biệt nhấn mạnh giai đoạn này, nó là điểm có thể tạo sự đột phá bất ngờ mang tính chủ động hội nhập. Đây là giai đoạn tích cực thiết lập các cơ chế tự do thương mại và hợp tác kinh tế toàn diện song phương và đa phương .
Phân tích tiến trình hiện đại hoá của Nhật Bản cũng như những đóng góp của Khoa học xã hội (KHXH) nước này cho thấy: vấn đề không phải là có cần thiết phải mở cửa hội nhập quốc tế hay không mà điều quan trọng làm thế nào để đạt được mục đích đó một cách hiệu quả nhất. Đây cũng là những nội dung chủ yếu mà giới KHXH Nhật Bản tập trung nghiên cứu. Trên thực tế khi đề cập đến nội dung này không chỉ đi sâu vào tìm kiếm những cơ hội trong mở cửa và hội nhập nhằm phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước mà nó đụng đến rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết: từ cách thức tiếp thu tinh hoa nhân loại, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, mô hình tổ chức quản lý…đến ý thức hệ, đặc điểm xã hội, quốc tế hoá, vai trò của Nhật Bản trong khu vực và trên thế giới…
Như các nhà nghiên cứu đã dự báo tình hình chính trị, an ninh thế giới năm 2009 có xu hướng bất ổn hơn năm 2008. Trên thực tế, 3 tháng đầu năm 2009 các nhân tố tiêu cực, tích cực đang hình thành đan xen nhau rất phức tạp. Nhiều biểu hiện cho thấy hai xu thế đa cực và đơn cực vẫn đang đấu tranh với nhau rất quyết liệt, thế giới đang hội tụ nhiều vấn đề mang tính toàn cầu đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải cùng nhau hợp sức giải quyết như: cơ chế tài chính quốc tế mới để thoát khỏi suy thoái kinh tế toàn cầu, chống chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, thảm hoạ thiên nhiên... Tác giả bài viết xin trình bày một số nội dung chủ yếu để bạn đọc tham khảo.
Một nguyên nhân cơ bản của cuộc cải cách chính trị ở Nhật Bản được thừa nhận là việc chấm dứt Chiến tranh Lạnh. Cần phải thừa nhận rằng Chiến tranh Lạnh đã tạo ra hệ thống chính trị Nhật Bản năm 1955 khi đó xung đột chính trị hay liên kết đã được định rõ bởi sự hợp tác hay bất hợp tác giữa Đảng Dân chủ Tự do và Đảng Xã hội Nhật Bản. Do đó, việc kết thúc Chiến tranh Lạnh đã khiến cho hệ thống này bị tổn thương nghiêm trọng. Trước hết, sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết đã kéo theo chấm dứt sự đối đầu của hai hệ thống chính trị, làm giảm nhiệt của những xung đột tư tưởng giữa những người bảo thủ và những người tiến bộ tại Nhật Bản. Thứ hai, sự thất bại của Chủ nghĩa Cộng sản đã làm giảm sự hấp dẫn và sự tín nhiệm của phái tả truyền thống tại Nhật Bản. Vào những năm 1950, để thách thức về uy lực Phái tả đã khích động những người bảo thủ hợp nhất và thiết lập hệ thống một Đảng có ưu thế hơn.Tiếp đến, đó là sự suy yếu của phái thân tả trong nội bộ Đảng Dân chủ Tự do. Vì vậy, liên minh chính trị giữa các nhóm Đảng cầm quyền và Đảng đối lập trở nên lỏng lẻo hơn. Cuối cùng, sự xuất hiện các thách thức quốc tế mới đã khuấy động một số các vấn đề chính trị chủ chốt nhằm thay đổi hệ thống chính trị để Nhật Bản có thể đối phó với những thách thức bên ngoài này.
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, nó có quy luật tự sinh, tự phát triển và tự diệt vong. Tôn giáo ra đời và phát triển từ hàng nghìn năm nay. Quá trình tồn tại và phát triển của tôn giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, đến tâm lý đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia. Đối với Trung Quốc, vấn đề này cũng không ngoại lệ. Trong 30 năm cải cách mở cửa, các nhà nghiên cứu, các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn kiên trì lấy quan điểm mácxít về tôn giáo làm tư tưởng chỉ đạo, đồng thời tất cả những gì có giá trị và phù hợp với nhân tố khoa học của tôn giáo phi macxit cũng được tổng kết và tiếp thu một cách hợp lý nhằm làm chỗ dựa cho việc xây dựng và phát triển quan điểm macxit về tôn giáo, nhằm góp phần tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng, tăng cường đoàn kết dân tộc, xây dựng “bốn văn minh”, đảm bảo xã hội ổn định, bảo vệ an ninh và thống nhất Tổ quốc.
Kamishibai là một tài sản văn hóa độc đáo của người Nhật Bản. Khác với truyện tranh - vốn được cấu tạo bằng tranh vẽ và ngôn từ, trên thế giới nước nào cũng có, Kamishibai của người Nhật khá đặc biệt. Ở Kamishibai, thông qua lời nói và động tác của người dẫn truyện, hiệu quả của “vở kịch một người diễn” được phát huy, làm cho câu chuyện trở nên vô cùng sống động. Khác với chỉ đơn thuần nghe kể một câu chuyện, trẻ em thấy dễ hiểu hơn, dễ dàng cảm thụ được niềm vui và tri thức từ những vở kịch Kamishibai. Tai và mắt đều phải cùng làm việc, trẻ em bước chân vào những thế giới hãy còn bí ẩn, cảm nhận niềm vui được khám phá câu chuyện.
Phát triển kinh tế bền vững là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng của chiến lược phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Đó là sự biến đổi về quy mô, cơ cấu, chất lượng của nền kinh tế gắn với việc bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội và sử dụng hợp lí tài nguyên, bảo vệ môi trường. Nhằm đảm bảo chiến lược phát triển bền vững, nhiều quốc gia trên thế giới đã có những động thái tích cực để tạo ra sự phát triển kinh tế bền vững. Tìm hiểu kinh nghiệm phát triển kinh tế bền vững của một số nước, từ đó rút ra những kinh nghiệm quý báu có ý nghĩa cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược duy trì phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững ở Việt Nam là vấn đề cần được lưu tâm.
Cuối thời kỳ Muromachi (1338 - 1573) trong bối cảnh đất nước đang còn nội chiến, nền kinh tế không tránh khỏi những trở ngại trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, không vì thế mà kinh tế thụt lùi so với thời kỳ trước mà trái lại có nhiều khởi sắc trong nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và ngoại thương... Về nông nghiệp, có những tiến bộ về mặt kỹ thuật như việc sử dụng sức kéo, giống cây trồng phong phú, đặc biệt đất trồng trọt tăng đáng kể nhờ kế hoạch khai khẩn đất hoang. Sự phát triển của nông nghiệp đã góp phần thúc đẩy một số ngành nghề thủ công như: chế tạo kim khí, vũ khí, nghề dệt, đồ gốm, xây dựng... ngày càng mở rộng. Về thương nghiệp, có bước phát triển mới với việc thành lập các phường hội của thương nhân. Nền nội thương phát triển khi thương nhân được khuyến khích bởi hệ thống thuế khóa, được đi lại tự do. Buôn bán thông qua họp chợ đã khá phát triển không chỉ ở các đô thị mà ở cả các vùng xa xôi. Sự tăng trưởng của việc buôn bán và tích lũy của cải của tầng lớp thương nhân có thể chưa làm giảm được xu thế tự trị của các lãnh chúa phong kiến nhưng đã thoát ra khỏi tình trạng tự cấp tự túc.