Hành lang kinh tế Đông Tây là tuyến hành lang dài 1450 km, đi qua 4 nước, bắt đầu từ thành phố cảng Mawlamyine (bang Mon) đến cửa khẩu Myawaddy (bang Kayin) ở biên giới Mianma - Thái Lan. Ở Thái Lan, bắt đầu từ Mae Sot, chạy qua 7 tỉnh: Tak, Sukhothai, Kalasin, Phitsanulok, Khon Kaen, Yasothon và Mukdahan. Ở Lào, chạy từ tỉnh Savannakhet đến cửa khẩu Dansavanh và ở Việt Nam, chạy từ cửa khẩu Lao Bảo qua các tỉnh thành Quảng Trị, Huế và Đà Nẵng.
Sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc những năm gần đây, đặc biệt sau khi nước này nhanh chóng thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính –kinh tế thế giới năm 2008-2009 đã thu hút được sự quan tâm lớn của dư luận trong và ngoài nước. Rất nhiều vấn đề về triển vọng phát triển của nước này được nêu lên. Mối quan tâm nổi bật hơn cả là đến năm 2020, diện mạo và vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế sẽ như thế nào.
Chế độ cơ bản của một xã hội gồm chế độ kinh tế và chế độ chính trị. Trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thì chế độ kinh tế giữ vai trò quan trọng nhất đối với sự vận động và phát triển của mọi xã hội. Trong chế độ kinh tế bao gồm hai nội dung chủ yếu nhất, đó là chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất và thể chế vận hành nền kinh tế của xã hội ấy mà thực chất là vai trò kinh tế của nhà nước. Trong lịch sử tư tưởng về kinh tế khi bàn về vai trò kinh tế của nhà nước từ xưa đến nay cũng được đề cập rất khác nhau về nội dung, hình thức, cơ chế điều tiết... Và trong quá trình phát triển của mình, mỗi quốc gia, dân tộc có những quan niệm và cách thức áp dụng khác nhau. Nhìn một cách tổng quan, mỗi lý thuyết được vận dụng trong thực tế đều xuất phát từ những lý do khách quan và chủ quan và có những thành công nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng nảy sinh nhiều bất cập cần điều chỉnh, bổ sung thêm.
Bất bình đẳng theo vùng là một vấn đề không thể tránh khỏi trong quá trình phát triển kinh tế. Sự phát triển kinh tế của Đài Loan đã chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển sang nền kinh tế đô thị dịch vụ. Khi công nghiệp hoá tiếp diễn, sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị trở nên mở rộng. Có nhiều nhân tố góp phần vào sự mất cân đối giữa phát triển nông thôn và thành thị. Việc di cư lao động từ nông thôn ra thành thị đóng một vai trò đáng kể trong số những nhân tố đó. Ngoài việc di cư từ nông thôn ra thành thị, những biến động về mật độ dân số và cơ cấu nhân khẩu cũng đóng góp vào sự mất cân đối giữa phát triển nông thôn và thành thị. Hầu hết các tài liệu truyền thống trước đây về di cư từ nông thôn ra thành thị đều tập trung chủ yếu vào kinh nghiệm của các nước kém phát triển (LDCs). Đô thị hoá ở Đài Loan có thể xem là hoàn thiện hơn so với hầu hết các nước kém phát triển khác.
Nhật Bản không chỉ là một trong những cường quốc về kinh tế mà cũng là một quốc gia đã xây dựng khá thành công một xã hội phúc lợi “ kiểu Nhật Bản”. Trong đó, cách thức giải quyết phúc lợi y tế được coi là hình mẫu khá độc đáo nhờ đó đã góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội nói chung, lĩnh vực y tế nói riêng. Bài viết này đề cập đến những kinh nghiệm về hoạt động phúc lợi y tế ở Nhật Bản và từ đó nêu lên những gợi ý cho Việt Nam trong lĩnh vực này hiện nay và trong thời gian tới.
Có một sự thúc đẩy đối với tình trạng khủng hoảng tài chính ở Nhật Bản. Nguồn ngân sách chi cho việc đối phó với khủng hoảng kinh tế và vấn đề già hóa dân số ngày càng phình to, trong khi nguồn thu ngân sách từ thuế lại giảm mạnh do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Số tiền vay vẫn tiếp tục tăng. Liệu nền tài chính của Nhật Bản còn tiếp tục tình trạng “leo dây” mạo hiểm này đến bao giờ? Vấn đề này ảnh hưởng thế nào đến nền kinh tế và đời sống người dân? Và, phải làm gì để nước Nhật khỏi “sụp đổ”? Bài phỏng vấn sau đây trên báo Asashi ngày 7/3/2010 sẽ phần nào cho thấy hiện trạng nền kinh tế Nhật Bản.
Cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới, Nhật Bản và Việt Nam là hai dân tộc đều rất coi trọng lời hứa. Tuy nhiên, sắc thái biểu hiện của sự coi trọng giá trị cao quý đó, bên cạnh những điểm tương đồng cũng có không ít nét khác biệt mà nếu không được hiểu đúng sẽ rất dễ đi đến những phiền toái trong quan hệ giao tiếp. Chúng tôi hi vọng bài viết này phần nào có thể giúp bạn đọc Việt Nam và Nhật Bản hiểu hơn về những điểm khác biệt và mức độ tương đồng trong lối nghĩ của người Nhật và người Việt về lời hứa thông qua nghiên cứu truyện cổ tích Nhật Bản và Việt Nam.
Năm 1854, Nhật Bản xoá bỏ chính sách “Bế quan toả cảng”. Tận dụng điều đó, ngay từ năm 1859, các tổ chức truyền giáo Âu - Mỹ đã gửi các nhà truyền giáo Tin Lành đến Nhật Bản để chuẩn bị cho ngày "khai giáo”. Theo điều khoản "tự do mậu dịch" của Hiệp ước Nhật - Mỹ thì người dân hai nước có thể trao đổi, buôn bán mà không có sự phân biệt, ngăn cấm nào và do vậy những sách báo, thư tịch của đạo Tin Lành cũng đưa tự do vào Nhật Bản thông qua sự giúp đỡ của chính những người Nhật Bản.
Sự ra đời của Chính quyền Minh Trị vào năm 1868 không chỉ đánh dấu bước tiến vượt bậc của Nhật Bản từ một nước phong kiến trì trệ, kém phát triển trở thành một cường quốc hùng mạnh mà còn mở ra một thời kỳ thống trị mới của một thế lực mới: thế lực Tây Nam. Thế lực Tây Nam chính là bốn phiên (han) đã có vai trò to lớn trong sự nghiệp lật đổ sự thống trị của chính quyền Mạc phủ Tokugawa, khôi phục lại quyền lực cho Thiên Hoàng. Bốn phiên đó gồm Satsuma, Choshu, Tosa và Hizen. Sau khi phong trào đảo Mạc giành thắng lợi hoàn toàn, sự ảnh hưởng của các phiên này ngày càng phát triển và mở rộng trong hệ thống chính quyền mới. Chính vì điều này mà nhiều người gọi nó là Hanbatsu Seifu (Chính phủ Phiên phiệt), chính phủ nằm dưới sự điều khiển của của các phiên mà không ai khác hơn chính là các hùng phiên Tây Nam.
Văn học là sự tự ý thức văn hóa. Mỗi nhà văn muốn hay không trước hết phải là con đẻ của một nền văn hóa dân tộc, tự giác tiếp nhận lối tư duy, những mô thức ứng xử từ xa xưa đã trở thành truyền thống của dân tộc mình. Mặt khác, tùy điều kiện sống của thời đại, họ lại tiếp nhận được nhiều tinh hoa văn hóa của các cộng đồng dân tộc khác. Tất cả những giá trị văn hóa của thời đại này đã được nhào nặn thành các tín hiệu nghệ thuật trong văn bản tác phẩm. Vì vậy giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học cần quan tâm tới việc lí giải các cấp độ khác nhau của tín hiệu nghệ thuật mà nhà văn sáng tạo ra.