Bài viết tập trung luận giải về tiến trình và kết quả hợp tác văn hóa của Hàn Quốc với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI. Nội dung của bài viết đề cập đến cơ sở thúc đẩy nỗ lực hợp tác của Hàn Quốc với ASEAN, chiến lược và định hướng chính sách giao lưu văn hóa của Hàn Quốc với ASEAN trong thời kỳ cầm quyền của các tổng thống Roh Moo-huyn, Lee Myung-bak, Park Geun-hee và Moon Jae-in. Trên cơ sở đó, bài viết đánh giá những thành công, hạn chế của tiến trình này và gợi mở những hàm ý thực tiễn cho Hàn Quốc trong bối cảnh triển khai “Chính sách hướng Nam mới” ở Đông Nam Á.
Vào thời kỳ Meiji (1868-1912), cùng với chính sách khai hóa văn minh, thực sản hưng nghiệp, phú quốc..., chính phủ mới đã thực hiện phương châm Vương chính phục cổ, khẳng định tính ưu việt của dân tộc Nhật Bản so với các nước châu Á “lạc hậu” khác. Với tư tưởng đó, chính phủ Meiji đã thúc đẩy chính sách cường binh, từng bước bành trướng ra các khu vực, quốc gia láng giềng bằng các cuộc chiến tranh xâm lược. Mặc dù có những ý kiến phản đối nhưng nhiều tông phái, tăng ni Phật giáo Nhật Bản thời kỳ này đã bày tỏ quan điểm ủng hộ chính phủ trong các cuộc chiến tranh đó mà trước hết là Chiến tranh Nhật - Thanh (1894-1895).
Là một trong những quốc gia có nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất của Việt Nam, Nhật Bản thường xuyên ủng hộ và hỗ trợ nước ta trong các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, các nhà đầu tư Nhật Bản cũng dành nhiều sự quan tâm tới lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam. Với lợi thế về điều kiện phát triển nông nghiệp ở Việt Nam và ưu thế về tiến bộ công nghệ trong sản xuất nông nghiệp của Nhật Bản, hai quốc gia đã đạt được nhiều thành tựu trong hợp tác nông nghiệp. Bài viết đề cập tới thực trạng hợp tác phát triển nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản, đánh giá hiệu quả hợp tác cùng cơ hội và thách thức cho hợp tác nông nghiệp giữa hai quốc gia.
Từ năm 1945 đến nay, vấn đề phát triển thương hiệu quốc gia ở Nhật Bản luôn được đề cao và quá trình triển khai thực hiện thường gắn với các mục tiêu, phương thức cụ thể phù hợp với từng giai đoạn, thời kỳ lịch sử. Do đó, tiến trình này được duy trì cùng với những cải cách, đổi mới không ngừng và đạt được nhiều thành tựu to lớn về phát triển thương hiệu quốc gia. Bài viết phân tích, đánh giá tiến trình phát triển thương hiệu quốc gia ở Nhật Bản qua các giai đoạn khác nhau; từ đó đưa ra những gợi mở hữu ích cho Việt Nam trong việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển thương hiệu quốc gia ở hiện tại và tương lai.
Bài viết sử dụng phương pháp miêu tả, tiếp cận theo hướng nghiên cứu đồng đại kết hợp với thao tác thống kê, phân loại, phân tích và tổng hợp nhằm phác họa một số yếu tố Phật giáo trong thành ngữ và tục ngữ tiếng Hàn. Giáo lí về nhân quả và luân hồi, triết lí vô thường, khổ đế và từ bi cũng như cách thức tu hành, hình ảnh chùa chiền và các vật dụng liên quan cho chúng ta thấy một phần diện mạo của Phật giáo Hàn Quốc. Cũng có thế thấy rõ những nét tương đồng và dị biệt của Phật giáo trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt.
Samsung là một tập đoàn kinh tế lớn của Hàn Quốc, hoạt động ở nhiều quốc gia, trong đó Việt Nam là một địa bàn trọng điểm. Từ năm 2008 đến nay, Samsung đã mở nhiều nhà máy lớn ở Bắc Ninh, Thái Nguyên và Thành phố Hồ Chí Minh sản xuất điện thoại, máy vi tính cũng như nhiều thiết bị điện tử khác. Là nhà đầu tư lớn nhất ở Việt Nam, với số vốn lên tới hàng chục tỷ USD, thu hút hàng chục nghìn lao động, Samsung đã góp phần quan trọng làm chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên nói riêng, trên phạm vi toàn quốc nói chung.
Quan hệ Ấn Độ - Hàn Quốc đã có những bước tiến dài trong những năm gần đây. Hai nước đã có nhiều hoạt động hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực như: năng lượng, thương mại, điện tử, đóng tàu, công nghệ thông tin và an ninh mạng. Mặc dù hai nước đã thiết lập quan hệ lãnh sự từ năm 1962 và nâng cấp quan hệ ngoại giao năm 1973 nhưng mối quan hệ này chỉ thực sự ấm lên khi hai quốc gia tích hợp được hai chiến lược
Sự lan rộng của đại dịch COVID-19 đã gây ra tình trạng “cầu vượt cung” trên toàn Nhật Bản. Tình trạng dư thừa cầu đã diễn ra vài lần trong 50 năm qua nhưng đây là lần đầu tiên xảy ra tình trạng này kể từ khi internet trở nên phổ biến. Cầu vượt cung vào thời điểm này đã khiến cho nhiều người mua gom hàng hóa rồi bán lại với giá cao hơn, ở đây, những ảnh hưởng của sự phổ cập internet là rất lớn. Bên cạnh đó, dịch COVID-19 kéo dài cũng làm xuất hiện biến đổi về tiêu dùng. Từ khóa cho vấn đề này là “không tiếp xúc” và “nhu cầu tiêu dùng tại nhà”. Bài viết sẽ tập trung vào hiện tượng “giao hàng lại” để làm rõ thị trường chuyển phát nhanh của Nhật Bản đã thay đổi như thế nào do sự lan rộng của đại dịch COVID-19.
Bài viết đánh giá và nhận định về chủ đề “Sống chung với COVID-19” được thực hiện dựa trên các thông tin về những tiến triển của công tác phòng và chống dịch bệnh COVID-19 trên toàn cầu trong giai đoạn từ tháng 1/2020 đến tháng 3/2022. Sự phân tích này đặt trong logic sự tính toán cân bằng tổng thể lợi ích bởi các rủi ro dịch bệnh và đóng cửa biên giới. Hiện nay, quan điểm chấp nhận sống chung an toàn với COVID-19 dần dần được chấp nhận thuận theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và bởi các chính phủ ở nhiều nơi trên thế giới.
Trong những năm gần đây, “Quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng” Việt Nam - Nhật Bản ngày càng phát triển mạnh mẽ và toàn diện. Từ khi bùng phát đại dịch COVID-19 cả hai nước cùng đối mặt với nhiều khó khăn, đại dịch đã tác động đến quan hệ hai nước trên nhiều lĩnh vực. Hai quốc gia phải hủy/hoãn một số hoạt động đối ngoại, hợp tác lao động, du lịch chịu tác động mạnh mẽ hầu như bị ngưng trệ. Tuy nhiên, hai bên vẫn duy trì viếng thăm cấp cao bằng nhiều hình thức linh hoạt, quan hệ chính trị - ngoại giao, kinh tế giữa hai nước vẫn được củng cố và tăng cường.