Nhìn lại 35 năm quan hệ Việt Nam - Nhật Bản ( 21/9/1973 – 21/9/2008), ta thấy mối quan hệ này đã có những bước tiến vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực.
Lĩnh vực chính trị trong quan hệ giữa hai bên không những được xem xét ở chính khía cạnh này mà còn được đánh gia thông qua chính các mối quan hệ kinh tế, văn hoá cũng như tiếp xúc mang tính phi chính phủ của nhân dân hai nước. Tuy nhiên, do chế độ chính trị hai nước theo đuổi khác nhau nên các cuộc tiếp xúc cấp cao giữa hai bên được xem là thước đo của quan hệ chính trị.
Chính vì vậy, bài viết này tập trung nhìn nhận mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản trên phương diện chính trị thông qua các cuộc tiếp xúc quan trọng trong 15 năm gần đây.
1. Về người có trọng trách cao nhất ở Nhật Bản và Việt Nam
Việt Nam và Nhật Bản có nhiều nét tương đồng về văn hoá song hai nước lại có hai chế độ chính trị khác nhau, một nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa còn nước kia lại theo chế độ tư bản chủ nghĩa nên tất yếu cơ cấu quyền lực chính trị cũng được xây dựng không giống nhau.
Đối với Việt Nam, một nước đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa, từ lâu đã khẳng định một cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trong điều 4 hiến pháp hiện hành của Việt Nam nêu rõ: " Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội."(1) Điều 9 điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam ghi rằng: " Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ... Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách... Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc... Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của đảng là Ban Chấp hành Trung ương"(2). Điều 17 ghi:"Ban chấp hành Trung ương bầu Bộ chính trị; bầu Tổng bí thư trong số Uỷ viên Bộ Chính trị ..."(3). Trong phần: “ Đảng và những vấn đề cơ bản về xây dựng Đảng” có ghi “ Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách...”(4). Thông qua những căn cứ trên cho phép ta rút ra hai điều là: thứ nhất, người có quyền lực cao nhất trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là Tổng Bí thư và vì Đảng được xác định là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội nên Tổng Bí thư cũng là người có quyền lực chính trị lớn nhất của Việt Nam; thứ hai, trong các mối quan hệ cụ thể với các quốc gia có sự khác biệt về hệ tư tưởng, thì có thể có những nhân vật khác không phải là Tổng bí thư song vẫn được coi là người có quyền lực chính trị cao nhất khi tiếp xúc với người đồng cấp của phía đối tác. Những điều đó được xác định đúng cả trên lý thuyết và thực tế.
Về phía Nhật Bản, chúng ta đều biết, nước này xây dựng chế độ nhà nước Quân chủ lập hiến từ năm 1868 cùng với sự lên ngôi của Thiên hoàng Minh trị và hiến pháp 1889 đã thể chế hoá hình thức nhà nước này. Năm 1945, sau thất bại trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, Nhật Bản phải chấp nhận sự chiếm đóng của quân đội đồng minh đứng đầu là Mỹ cùng với bản Hiến pháp hoà bình được được công bố sau đó một năm. Bản Hiến pháp đó dành hẳn chương 1 quy định về Thiên hoàng song thực chất ông chỉ là biểu tượng của đất nước mà không nắm bất cứ một chút quyền lực nhà nước nào. Có thể nói kể từ đó, thể chế nhà nước Nhật Bản là thể chế tam quyền phân lập tương đối hoàn chỉnh. Quyền lực chính trị với cốt lõi là quyền lực nhà nước được phân chia tương đối đồng đều cho ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, tất yếu cũng như các nước đi theo thể chế tam quyền phân lập khác, tính chủ động thực hiện quyền lực tập trung vào hai nhánh lập pháp và hành pháp. Điều 41 trong Hiến pháp hoà bình 1946 ghi rằng: Quốc hội là cơ quan tối cao nắm giữ quyền lực và cũng là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Hiến pháp cũng ghi rằng Quốc hội Nhật Bản gồm có hai viện là Thượng nghị viện và Hạ nghị viện với quyền lực nghiêng về Hạ nghị viện nhất là trong việc bổ nhiệm Thủ tướng; quyền hành pháp được giao cho Nội các đứng đầu là Thủ tướng, ông có toàn quyền bổ nhiệm và bãi miễn các thành viên của Nội các. Nghiên cứu trường hợp của Nhật Bản người ta thấy rằng mặc dù trên lý thuyết thì cơ quan lập pháp có quyền lực lớn hơn song trên thực tế thì cơ quan hành pháp lại nhiều khi chiếm ưu thế. Mặt khác, theo hiến pháp hiện nay thì người có khả năng trở thành Thủ tướng Nhật Bản chỉ khi ông ta nhận được sự ủng hộ của trên 1/2 hạ nghị sĩ. Nói cách khác, hiện nay Thủ tướng Nhật Bản luôn là người có quyền lực chính trị lớn nhất. Nhìn nhận chính trường Nhật Bản diễn ra trong suốt 30 năm qua, kể từ khi nước này chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa thì hầu hết thời gian đó đảng Dân chủ Tự do luôn nắm quyền. Đảng này chỉ không tham gia chính phủ có một năm (7/1993 - 7/1994) và mất quyền thủ tướng khoảng hai năm rưỡi( 7/1993- 1/1996). Và ngay cả trong khoảng thời gian mất quyền điều hành Nội các thì Đảng Dân chủ Tự do vẫn luôn là đảng chiếm đa số trong cả Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. Điều lệ của đảng Dân chủ Tự do trao cho chủ tịch đảng, với tư cách là người đứng đầu trong đảng, quyền lực rất lớn. Trong mục 4-2 thuộc phần 1 của chương II Điều lệ đảng Dân chủ Tự do nói rõ: " Chủ tịch là người có trách nhiệm lớn nhất trong Đảng, là người đại diện cho Đảng giải quyết tất cả những công việc của Đảng". Quyền lực đó thể hiện trong việc bố trí nhân sự trong đảng và cả trong nhà nước khi đảng nắm quyền; quyết định các vấn đề về ngân sách của đảng; Chủ tịch đảng đương nhiên là thủ tướng nếu như đảng nắm quyền thành lập nội các.
Qua cách nhìn nhận trên ta thấy, các cuộc tiếp kiến giữa Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam và Thủ tướng Nhật Bản chính là các cuộc gặp thượng đỉnh giữa hai nước Việt Nam - Nhật Bản. Trong các cuộc gặp gỡ đó, khi Thủ tướng Nhật Bản đồng thời là Chủ tịch đảng Dân chủ Tự do lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Những lần tiếp xúc như vậy sẽ giải quyết các vấn đề có ý nghĩa chiến lược mà mỗi bên quan tâm trong bối cảnh khách quan quy định lúc đó.
2. Những cuộc gặp thượng đỉnh có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Nhật Bản
Tháng 8 năm 1994, 11 năm sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, vị Thủ tướng Nhật Bản đầu tiên đã sang thăm Việt Nam. Trong chuyến viếng thăm đó, Thủ tướng Nhật Bản Murayama đã có cuộc hội kiến với Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười. Hai nhà lãnh đạo đã đi đến quyết định mở rộng hơn nữa quan hệ giữa hai nước không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà cả lĩnh vực chính trị và văn hoá. Tiếp theo, tháng 4 năm 1995, Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười đã thăm chính thức Nhật Bản theo lời mời của Thủ tướng Murayama. Đây là chuyến thăm đầu tiên của Tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam đến Nhật Bản. Chuyến thăm và làm việc này đã đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Các nghi thức đón tiếp trọng thể của Nhật Bản dành cho Tổng bí thư Đỗ Mười và kết quả làm việc giữa hai bên đã thể hiện sự tin cậy lẫn nhau. Phía Nhật Bản đã khẳng định một cách rõ ràng với thế giới rằng nước Việt Nam mà họ đang kết bạn là một nước Xã hội Chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản còn Việt Nam cũng một lần nữa tuyên bố quan điểm muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới. Có thể nói, hai lần gặp gỡ giữa hai nhà lãnh đạo cao nhất của hai nước có ý nghĩa khác nhau song nó đều thể hiện quyết tâm của họ muốn dỡ nốt bức rào cản cuối cùng trong quan hệ giữa hai nước, bức rào về hệ tư tưởng, thể chế chính trị. Rõ ràng là bên cạnh các yếu tố khách quan thuận lợi, thì chính các cuộc gặp trên đã trở thành một tác nhân quan trọng khiến cho quan hệ hai nước phát triển nhanh chóng. Sự phát triển đó được lượng hoá một cách thuyết phục. Theo Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản thì đầu tư vào Việt Nam của Nhật Bản từ năm 1989 cho đến 1994 mới có 71 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn đầu tư là 727 triệu đô la. Song từ năm 1995 với việc chú trọng đến các dự án có quy mô lớn và dài hạn tập trung vào các lĩnh vực công nghiệp quan trọng như: thăm dò và khai thác dầu khí, xi măng, hoá chất luyện kim, ô tô, điện tử khiến cho đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam tăng vọt. Tính đến tháng 10 năm 1996 đã có 158 dự án với số vốn đầu tư đã thực hiện lên đến 2 tỷ 378 triệu đô la.
Chỉ sau hơn hai năm diễn ra hai cuộc gặp gỡ trên, tháng 1 năm 1997, Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto đến thăm Việt Nam. Đây là chuyến thăm đầu tiên của Chủ tịch đảng Dân chủ Tự do với tư cách là Thủ tướng Nhật Bản sang Việt Nam. Chuyến thăm này thể hiện rõ sự quan tâm sâu sắc của người đứng đầu Nhật Bản đối với Việt Nam. Bỡi lẽ, chúng ta biết rằng, tháng 10 năm 1996 Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto nhậm chức sau hơn hai năm đảng Dân chủ Tự do đánh mất vai trò điều hành nhà nước với bao bộn bề công việc, song chỉ ba tháng sau ông đã thực hiện chuyến đi này. Trong chuyến viếng thăm, Thủ tướng Hashimoto đã có buổi làm việc với Tổng bí thư Đỗ Mười. Trong buổi làm việc, vị đứng đầu đất nước Nhật Bản đã khẳng định sự ủng hộ của mình đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam và hai nhà lãnh đạo cũng đã nhất trí tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước và củng cố sự ổn định chính trị, an ninh trong khu vực. Một điều đặc biệt có ý nghĩa quan trọng có được trong cuộc tiếp xúc giữa hai nhà lãnh đạo cao nhất của hai nước là hai ông đã nhất trí "xúc tiến quan hệ hữu nghị giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Tự do Dân chủ Nhật Bản"(5) với tư cách là hai đảng cầm quyền.
Có thể nói, các cuộc gặp gỡ thượng đỉnh giữa Nhật Bản và Việt Nam không phải bao giờ và thường là không đi vào giải quyết những vấn đề đơn lẻ mà tập trung khai thông các yếu tố có ý nghĩa chiến lược. Và chính sau các cuộc tiếp xúc như vậy đã tạo tiền đề đẩy mạnh mối quan hệ giữa hai nước trên các lĩnh vực cụ thể. Những con số nói lên nhận định trên mà ai cũng có thể nhìn thấy dễ dàng là viện trợ phát triển chính thức của Nhật Bản dành cho Việt Nam liên tục tăng hoặc được giữ vững trong suốt 10 năm qua ngay cả khi nước này gặp khó khăn trong phát triển kinh tế và buộc phải giảm quy mô trong lĩnh vực đó đối với thế giới.
Tháng 12 năm 1998, Thủ tướng Obuchi thăm hữu nghị chính thức Việt Nam. Với tư cách là một vị Thủ tướng có nhiều thiện cảm với Việt Nam, ông Obuchi đã thể hiện tình cảm chân thành của mình khi đến Việt Nam. Ông cho rằng, chuyến thăm này đã gây cho ông những ấn tượng sâu sắc về sự phát triển của Việt Nam dưới chính sách đổi mới. Với tư cách đã từng là Chủ tịch Liên minh nghị sỹ Nhật Bản - Việt Nam, Chủ tịch Hội giao lưu văn hóa Nhật Bản - Việt Nam, những năm qua ông đã làm hết sức mình để thúc đẩy quan hệ Nhật Bản - Việt Nam. Chính sách đổi mới của Việt Nam vẫn tiếp tục là chủ đề quan trọng giành được sự quan tâm và ủng hộ của phía Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản đã quyết định tăng tổng kim ngạch viện trợ cho Việt Nam trong năm tài chính 1998 lên 102, 3 tỷ yên và đồng ý việc Việt Nam tham gia Quỹ Nhật Bản trị giá 30 tỷ USD hỗ trợ các nước trong khu vực khắc phục khủng hoảng tài chính xảy ra năm 1997.
Tháng 2 năm 2002 Koizumi đã đưa ra sáng kiến về mở rộng hợp tác kinh tế với các nước Đông Nam Á. Tháng 4 năm 2002 ông thăm Việt Nam. Qua các cuộc hội đàm của Thủ tướng Koizumi với các nhà lãnh đạo Việt Nam có thể thấy Nhật Bản đặt nhiều hy vọng vào Việt Nam, vào sự đóng góp của chúng ta cho sự ổn định và phát triển của khu vực.
Quan hệ kinh tế giữa hai nước được đẩy lên thêm về mặt chính trị đã được thể hiện qua các con số cụ thể. Riêng vốn ODA của Nhật Bản cho Việt Nam đã chiếm 40% tổng vốn ODA của quốc tế cho Việt Nam. Nhật Bản hiện là nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam cả về quy mô vốn vay ưu đãi lẫn viện trợ không hoàn lại. Sự giúp đỡ to lớn này đã giúp Việt Nam phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, hỗ trợ Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 2002, quan hệ Việt Nam-Nhật Bản còn có thêm một sự kiện quan trọng khi Tổng bí thư Nông Đức Mạnh sang thăm chính thức Nhật Bản. Chính trong dịp này lãnh đạo của hai nước đã đưa ra phương châm hợp tác theo tinh thần "ổn định lâu dài và tin cậy lẫn nhau" trên cơ sở đối tác bình đẳng. Tổng bí thư Nông Đức Mạnh và Thủ tướng Koizumi đã hội đàm cùng nhau, bàn bạc nhiều vấn đề liên quan đến quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trong thế kỷ XXI. Hai bên đều nhất trí phải tăng cường đối thoại chính trị để giúp cho hai nước với tư cách là những đối tác khu vực hiểu biết nhau sâu sắc hơn, phải đẩy mạnh quan hệ kinh tế, trong đó chú trọng đến việc cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam, đến việc sử dụng có hiệu lực và hiệu quả hơn nữa ODA của Nhật Bản, phải tăng cường giao lưu song phương, mở rộng sự giao lưu đó ở các cấp. Về lĩnh vực đối ngoại, cả hai bên đều khẳng định ý nghĩa quan trọng của việc các bên hợp tác chặt chẽ hơn tại các diễn đàn song phương và đa phương, khu vực và quốc tế. Có thể nói chuyến đi thăm Nhật Bản của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã đạt được kết quả rất tốt đẹp. Dấu ấn đậm nét của chuyến đi là đã cho công bố một "Thông cáo báo chí chung", tạo khuôn khổ cho quan hệ hai nước Việt Nam và Nhật Bản trong thế kỷ XXI. Trong lĩnh vực chính trị: “ Hai bên cho rằng, việc tăng cường các cuộc tiếp xúc và đối thoại song phương ở các cấp, đặc biệt là các cuộc đối thoại chính trị, sẽ giúp cho hai nước với tư cách những đối tác khu vực hiểu biết nhau sâu sắc hơn. Hai nhà lãnh đạo chia xẻ chủ trương hàng năm nên tiến hành tham vấn chính trị ở cấp thứ trưởng ngoại giao và đối thoại liên chính phủ về ngoại giao-quốc phòng”(6). Ở đây cũng phải nói thêm rằng, bước vào thế kỷ XXI Nhật Bản có một vị Thủ tướng tài ba mà đến nay người ta chưa có đủ độ lùi thời gian để đánh giá hết tầm vóc của ông- Thủ tướng Koizumi. Chính vì vậy mà ý nghĩa của cuộc gặp giữa Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh và Thủ tướng Nhật Bản Koizumi lần này có một ý nghĩa hết sức to lớn. Chính từ sau cuộc gặp đó, quan hệ chính trị Việt Nam - Nhật Bản được nâng lên tầm cao mới. Điều này ta có thể thấy rất rõ qua hai cuộc tiếp xúc quan trọng tiếp sau.
3. Về hai cuộc gặp quan trọng gần đây
3.1 Chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Việt Nam năm 2006
Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã có cuộc hội đàm xây dựng và hướng tới tương lai nhân dịp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, vị khách mời chính thức đầu tiên của Nội các mới Nhật Bản, đến thăm Nhật Bản từ ngày 18/10/2006 đến ngày 22/10/2006. Trong tuyên bố chung Việt Nam-Nhật Bản ngày 19/10/2006 tại Tôkyô đó đề cập đến những vấn đề sau:
Thứ nhất, hai bên đánh giá cao tình hữu nghị giữa hai nước được phát triển trên tinh thần ổn định lâu dài và tin cậy lẫn nhau dựa trên Tuyên bố chung giữa hai Ngoại trưởng Việt - Nhật hướng tới tầm cao mới của đối tác bền vững năm 2004.
Thứ hai, hai bên bày tỏ quyết tâm tăng cường và thúc đẩy hơn nữa quan hệ song phương hướng tới quan hệ đối tác chiến lược, hoà bình và phồn vinh ở Châu Á(7).
Thứ ba, hai bên khẳng định cần thúc đẩy đối thoại, mong muốn tăng cường hơn nữa các chuyến thăm và trao đổi ý kiến cấp cao.
Thứ tư, hai bên khẳng định lại tầm quan trọng của việc tiếp tục thực hiện chính sách Đổi Mới của Việt Nam và việc Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Về vấn đề này, Nhật Bản ủng hộ mạnh mẽ đối với việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và tiếp tục ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam trong việc hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt trong tiến trình sau gia nhập WTO.
Thứ năm, hai bên khẳng định lại quyết tâm thúc đẩy và sớm kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện ASEAN-Nhật Bản, trong đó bao gồm các điều khoản về hợp tác.
Thứ sáu, hai bên nhất trí cùng nhau tạo thuận lợi để thúc đẩy các doanh nghiệp hai nước đưa kim ngạch thương mại hai chiều 8,5 tỷ USD năm 2005 lên 15 tỷ USD vào năm 2010.
Thứ bảy, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, bao gồm cả Công nghệ Thông tin và Viễn thông (ICT) trên cơ sở Hiệp định Hợp tác Khoa học và Công Nghệ giữa Việt Nam và Nhật Bản ký tháng 8 năm 2006. Ghi nhận tầm quan trọng của dự án hợp tác ODA của Nhật Bản về giáo dục đại học, được bắt đầu từ năm 2006. Ghi nhận tầm quan trọng của việc hợp tác về việc sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục đích hoà bình, hai bên quyết định xúc tiến hợp tác trong lĩnh vực này bao gồm các nỗ lực về các mặt luật pháp, hành chính, và những cơ sở cần thiết khác.
Thứ tám, hai bên bày tỏ quyết tâm thúc đẩy hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau thông qua giao lưu trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, du lịch và thể thao. Chia sẻ quan điểm về tầm quan trọng của việc trao đổi thanh niên và đánh giá cao hiệu quả giáo dục của các hoạt động của học sinh làm phim ảnh đang được tiến hành ở Việt Nam hiện nay.
Thứ chín, về hợp tác tại các diễn đàn quốc tế, hai bên cùng nhận thấy rằng việc tăng cường hợp tác trong giải quyết các thách thức khu vực và toàn cầu là quan trọng. Vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng, nó thể hiện hai bên cần sự ủng hộ của nhau trong việc giải quyết những vấn đề phức tạp trên trường quốc tế. Nó cũng chứng tỏ, vấn đề hệ tư tưởng thực sự không còn là trở ngại trong quan hệ song phương.
3.2 Tầm cao mới Nhật Bản- Việt Nam qua chuyến thăm Nhật Bản của Chủ tịch nước Việt Nam 2007
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã thăm Nhật Bản theo lời mời của Thiên hoàng Nhật Bản Akihito và Hoàng hậu, từ ngày 25-29/11/2007.
Chuyến đi đó mở ra thời kỳ mới cho mối quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt hướng tới đối tác chiến lược giữa hai nước. Trong tuyên bố chung ký ngày 27/11/2007 hai bên đã nêu những điểm quan trọng sau:
Thứ nhất, hai bên ghi nhận rằng, trong nhiều năm qua, Nhật Bản luôn là đối tác kinh tế và nhà tài trợ hàng đầu của Việt Nam. Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đã tăng 9 lần trong vòng 3 năm qua. Thương mại hai chiều năm 2006 tăng 20% so với năm 2005. Viện trợ Phát triển chính thức (ODA) hàng năm Nhật Bản dành cho Việt Nam vượt trên 100 tỷ yên từ năm tài khóa 2005. Hoạt động kinh tế và viện trợ của Nhật Bản tại Việt Nam đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển về kinh tế - xã hội của Việt Nam. Việt Nam trở thành một nền kinh tế đang nổi lên và là động lực cho sự phát triển kinh tế khu vực. Hai bên đều mong muốn thiết lập một mối quan hệ đối tác kinh tế toàn diện, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì sự phát triển và phồn vinh của châu Á .
Thứ hai, hai bên nhất trí rằng, cùng với việc Việt Nam tích cực hội nhập khu vực và quốc tế, mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản đã và đang được tăng cường trên nhiều lĩnh vực, trong các diễn đàn khu vực và toàn cầu, như tại Hội nghị cấp cao APEC tổ chức tại Việt Nam năm 2006, Hội nghị cấp cao ASEAN-Nhật Bản, Hội nghị cấp cao ASEAN+3, Hội nghị cấp cao Đông Á, Hội nghị cấp Ngoại trưởng ASEM sẽ tổ chức tại Việt Nam năm 2009 cũng như các diễn đàn tại Liên hợp quốc.
Thứ ba, hai bên cho rằng cùng với việc Việt Nam trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, sự hợp tác chặt chẽ giữa hai nước sẽ tiếp tục góp phần tích cực vào hoà bình, ổn định và phát triển của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.
Thứ tư, hai bên nhận thấy rằng, sau một năm thực hiện Tuyên bố chung: “Hướng tới quan hệ Đối tác chiến lược vì Hoà bình và Phồn vinh ở Châu Á”, quan hệ song phương đó được tăng cường đáng kể, tạo động lực để mở rộng hơn nữa quan hệ giữa hai nước. Trong bối cảnh hai nước sẽ kỷ niệm 35 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản (21/9/1973 - 21/9/2008), hai bên bày tỏ quyết tâm thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Trên tinh thần đó, hai bên đã nhất trí thông qua “Chương trình hợp tác hướng tới quan hệ đối tác chiến lược giữa Việt Nam và Nhật Bản”.
Đáng chú ý là qua cuộc viếng thăm này, cách nghĩ về việc xây dựng quan hệ hướng tới đối tác chiến lược của hai bên đã đi vào thực chất thông qua chương trình cụ thể với 44 điều mục trên hầu khắp các lĩnh vực. Bao gồm: giao lưu, hợp tác trong đối thoại chính sách, an ninh và quốc phòng; quan hệ đối tác kinh tế toàn diện; hoàn thiện hệ thống pháp lý, cải cách hành chính; khoa học và công nghệ; biến đổi khí hậu, môi trường, tài nguyên thiên nhiên và năng lượng; tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước; hợp tác trên trường quốc tế.
Như vậy có thể nói, bên cạnh những thuận lợi khách quan khiến cho quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng phát triển thì tính chủ động của các nhà lãnh đạo cao nhất giữa hai nước sẽ luôn góp phần củng cố và thúc đẩy tình hữu nghị giữa hai bên. Chỉ nhìn nhận trên những nét đại thể như vậy về các cuộc gặp gỡ của các nhà lãnh đạo cao nhất của hai nước cũng đủ cho chúng ta tin tưởng rằng mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ tiếp tục đơm hoa kết trái trong tương lai.
TS HỒ VIỆT HẠNH
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ( Đã được sửa chữa bổ sung năm 2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 14.
2. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, tr.5.
2.http://www.vn.emb-japan.go. jp/html/vthongcao baochi.html
3.http://www.mofa.gov.vn/vi/nr0408071041 43/nr040807105001/ns 061020090355/view
(1) Hiến pháp Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ( Đã được sửa chữa bổ sung năm 2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 14.
(2) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, tr.16-17.
(3) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, tr.28-29.
(4) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội, tr.5.
(5Dẫn theo: Nhật Bản (xuất bản lần thứ ba '97-'98), Jetro, tr 32.)