Hoàng Minh Lợi [1]
Tóm tắt: Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, Nhật Bản luôn nhấn mạnh đến một nhân tố không thể tách rời trong chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia, đó là quyền sở hữu trí tuệ, bởi lẽ quyền sở hữu trí tuệ có vai trò rất quan trọng quyết định đến sự thành công (và cả hạn chế) của chiến lược này ở trong nước và trên thế giới. Hơn nữa, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến nhiều lĩnh vực của chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia tại Nhật Bản như: kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, môi trường, y tế, quan hệ quốc tế…, trong đó khoa học - công nghệ và văn hóa được xem là những lĩnh vực nổi trội trong tiến trình này. Đó cũng là những đối tượng chủ yếu liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ được đề cập tới trong nội dung của bài viết này.
Từ khóa: Quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu quốc gia, Nhật Bản
B |
ước vào thế kỷ XXI, bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi khiến cho Chính phủ Nhật Bản nhìn nhận lại những vấn đề cơ bản của chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia. Chính phủ Nhật Bản nhận định quyền sở hữu trí tuệ là một nhân tố luôn song hành với chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia, đồng thời góp phần quan trọng trong việc chống lại nguy cơ tụt hậu và phát triển đất nước.
Trên thực tế cho thấy, một quốc gia hoàn toàn có thể phát triển mạnh mẽ mà không nhất thiết phải có nguồn lực vật chất dồi dào, mà vấn đề là chính phủ và người dân có nhận thức được giá trị thật sự của tài sản trí tuệ và việc bảo hộ các tài sản trí tuệ đó. Cựu Thủ tướng Nhật Bản Tanzan Ishibashi khẳng định: “Tôi tin chắc rằng đây là bí quyết phát triển công nghiệp của chúng tôi từ thời kỳ Minh Trị. Chỉ trong một nước đã nhận ra giá trị thực sự của hệ thống bảo hộ sáng chế và quyết tâm dùng mọi sức lực của nó để xây dựng hệ thống đó người ta mới có thể hy vọng công nghiệp phát triển”[2]. Trải qua quá trình phát triển từ trước đến nay, có thể khẳng định hệ thống bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Nhật Bản cũng được đánh giá là hiệu quả và đáng tin cậy. Nhật Bản sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ mang tính chuyên biệt cao, trong đó Hội đồng giải quyết khiếu nại của Cơ quan Sáng chế Nhật Bản (JPO) xử lý các vụ việc khiếu nại liên quan đến hủy bỏ/chấm dứt hiệu văn bằng bảo hộ. Ban Sở hữu trí tuệ (IP Division) thuộc tòa án khu vực (Tokyo hay Osaka) xử lý các vụ việc liên quan đến xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo thẩm quyền. Khi một trong các bên không đồng ý với quyết định hủy bỏ/chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ của JPO hoặc bản án/quyết định của tòa án khu vực/bên liên quan có thể kháng cáo lên Tòa án thượng thẩm sở hữu trí tuệ (IPHC). Luật tố tụng Nhật Bản cũng có qui định về việc kháng cáo quyết định/bản án của IPHC lên cấp xét xử cao nhất là tòa án tối cao, tuy nhiên các trường hợp này cũng hạn chế. Hơn nữa, Tòa án tối cao rất hiếm khi bác bỏ phán quyết của tòa án thượng thẩm vì tòa án tối cao chỉ xem xét lại các khía cạnh pháp lý của phán quyết chứ không xem xét lại nội dung vụ việc. Hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ cho thấy Nhật Bản xem đây là một nhân tố bảo chứng cho sự phát triển, đạt nhiều thành tựu của chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia. Do đó, các phương thức của chiến lược được Nhật Bản đưa ra luôn nhấn mạnh đến việc phải chú trọng đến quyền sở hữu trí tuệ trong bất kỳ lĩnh vực nào thuộc thương hiệu quốc gia, nhất là những lĩnh vực nổi trội như khoa học - công nghệ và văn hóa quốc gia.
1. Quyền sở hữu trí tuệ trong chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia thông qua lĩnh vực khoa học - công nghệ
Đã từ lâu, lĩnh vực khoa học - công nghệ luôn là một bảo chứng cho Nhật Bản bởi uy tín về chất lượng của sản phẩm hàng hóa. Điều đó tạo sức hấp dẫn và vị thế lớn cho thương hiệu quốc gia song không có nghĩa Nhật Bản có thể “yên tâm” trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của nhiều quốc gia khác. Chính vì vậy, nước này đưa ra các phương thức nhằm phát triển thương hiệu quốc gia như một sự khẳng định về uy tín và hình ảnh của Nhật Bản trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI. Một phương thức chung được áp dụng để phát triển thương hiệu quốc gia trong lĩnh vực khoa học - công nghệ ở Nhật Bản gồm nhiều bước để quảng bá hiệu quả nhất đối với tiến trình phát triển của thương hiệu. Cho dù việc triển khai các bước có hoàn thiện đến đâu thì với những thương hiệu lớn trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ là yếu tố không tách rời. Tại Nhật Bản “quyền sở hữu trí tuệ là quyền lợi được quy định bởi pháp lệnh, liên quan tới quyền sáng chế, quyền sáng chế những mẫu nhỏ hay mẫu hữu ích (utility model), quyền tác giả, quyền thương hiệu và những quyền liên quan tới tài sản trí tuệ bao gồm cả những quyền lợi liên quan tới lợi ích được bảo vệ về mặt pháp luật”[3]. Trong quyền sở hữu trí tuệ có quyền sở hữu công nghiệp là tên gọi chung của 4 loại: quyền sáng chế, quyền mẫu mới thực dụng, quyền thương hiệu, quyền kiểu dáng. Quyền sở hữu công nghiệp tại Nhật Bản được nhìn nhận như quyền lợi với mục đích đóng góp cho sự phát triển của khoa học - công nghệ Nhật Bản và là quyền đóng vai trò trung tâm của quyền sở hữu trí tuệ. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, việc bảo hộ sở hữu trí tuệ có ý nghĩa rất quan trọng với thương hiệu quốc gia. Xét cho cùng, mục đích lớn nhất trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ là phát triển xã hội. Thực tế chỉ ra rằng nếu như việc bảo hộ bị buông xuôi thì nhiệt huyết của công ty, doanh nghiệp, tập đoàn, người sáng chế phát minh ra sản phẩm đó sẽ bị tổn hại và như thế việc mong chờ một xã hội phát triển là không thể. Chính vì lẽ đó, quyền sở hữu trí tuệ nhằm bảo hộ việc bắt chước từ bên thứ ba đối với các sản phẩm được đăng ký bảo hộ. Theo đó, có thể dùng pháp luật hoặc các hình thức tương thích để bảo vệ người sáng chế khi bị bắt chước, làm giả, cạnh tranh không lành mạnh. Điều đó góp phần tạo thêm động lực, ảnh hưởng tích cực tới việc tạo ra những cái mới. Ở Nhật Bản, việc tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ góp phần bảo đảm duy trì trật tự xã hội và có thể trông đợi sự phát triển lớn mạnh từ xã hội như vậy.
Trong thời đại hiện nay, để phát triển thương hiệu quốc gia qua lĩnh vực khoa học công nghệ, Nhật Bản tích cực triển khai thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ hơn nữa và cạnh tranh đúng đắn. Phương sách này không chỉ góp phần vào việc hiện thực hóa cuộc sống phồn thịnh mà còn thúc đẩy phát triển xã hội văn minh hơn nữa. Chính vì lẽ đó, các tập đoàn, doanh nghiệp, công ty Nhật Bản nhận thức rõ quyền sở hữu trí tuệ là nguồn tài nguyên quản lý thiết yếu cho tương lai và cần được bảo vệ. Theo đó, bằng cách kết hợp hoạt động kinh doanh, nghiên cứu và phát triển (R&D), quyền sở hữu trí tuệ, các đại diện về khoa học - công nghệ của Nhật Bản đang tích cực củng cố tài sản trí tuệ của mình trên toàn cầu, qua đó không chỉ đóng góp cho chính mình và xã hội mà còn nâng cao vị thế, hình ảnh Nhật Bản trên thế giới. Thật vậy, tổ chức bộ phận sở hữu trí tuệ tại các cơ sở khoa học - công nghệ rất được quan tâm cả ở trong nước và quốc tế. Với các tập đoàn kinh tế lớn, bộ phận sở hữu trí tuệ bao gồm: bộ phận sở hữu trí tuệ tại trụ sở chính do chủ tịch trực tiếp phụ trách và các bộ phận sở hữu trí tuệ tại phân xưởng, trung tâm R&D, các công ty con. Bên cạnh đó, các tập đoàn kinh tế còn triển khai chiến lược sở hữu trí tuệ toàn cầu của Nhật Bản để xác định nhiều vấn đề liên quan tới sở hữu trí tuệ thiết yếu dựa trên lĩnh vực khoa học - công nghệ, đồng thời đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa hoạt động sở hữu trí tuệ. Theo đó, các tập đoàn, doanh nghiệp xin cấp bằng sáng chế trước khi phát triển hoạt động kinh doanh ở nước ngoài, nơi có nhiều cơ hội mở rộng quảng bá hình ảnh, vị thế của Nhật Bản với thế giới. Không dừng lại ở đó, chiến lược sở hữu trí tuệ nhằm đạt tiêu chuẩn quốc tế được Nhật Bản quan tâm đặc biệt. Điều này xuất phát từ việc để mở rộng hoạt động kinh doanh ra thị trường toàn cầu, các tập đoàn lớn của Nhật Bản tích cực phổ biến tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động sở hữu trí tuệ góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và mở rộng thị phần của Nhật Bản trên thế giới. Cùng với đó, Nhật Bản nỗ lực ngăn chặn mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, tích cực hợp tác với các tổ chức khác trong nước và nước ngoài như một phần trong nhiều biện pháp chống hàng giả, qua đó bảo vệ hình ảnh uy tín của Nhật Bản trên thế giới. Ngoài các biện pháp kể trên, các tập đoàn, công ty, doanh nghiệp phải tạo nên sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các bước xây dựng, quản lý, bảo vệ thương hiệu riêng song muốn phát triển thương hiệu quốc gia cần có nhiều phương sách có tính chất đột phá. Có thể kể ra một số phương sách cụ thể:
Thứ nhất, tạo nên sự khác biệt với các đối thủ cạnh tranh. Bằng cách này, các tập đoàn, công ty có thể phân biệt rõ sự thành công hay không trong việc giành được phần áp đảo về lĩnh vực của mình.
Thứ hai, nâng cao tính ưu việt của sản phẩm, hàng hóa sẽ được bảo đảm bởi lòng trung thành của người tiêu dùng. Bằng cách giữ được các ưu điểm của sản phẩm, hàng hóa trong nhiều năm thì lòng trung thành của người sử dụng tăng lên tỷ lệ thuận với sự ổn định lâu dài của thương hiệu quốc gia.
Thứ ba, tăng nhận dạng tên và khả năng lớn mạnh của tập đoàn, công ty. Muốn được như vậy cần phải có được sự thừa nhận của lực lượng đông đảo người sử dụng trong và ngoài nước. Do đó, việc thiết lập nên một hình ảnh uy tín là vô cùng cần thiết song phải nhận ra chính xác điểm mạnh của chính mình cũng như luôn xem xét lại các nhu cầu (thường thay đổi theo thời gian) của người sử dụng nói riêng, quốc gia sử dụng nói chung.
Nhật Bản tập trung vào lĩnh vực cơ bản vốn là thế mạnh và trở thành động lực chính trong tiến trình nâng cao hình ảnh thương hiệu quốc gia. Theo đó, Nhật Bản chú trọng vào lĩnh vực khoa học - công nghệ, tiếp tục tạo sức hấp dẫn và vị thế lớn cho thương hiệu quốc gia vốn đã được thừa nhận của quốc tế. Một khi đã trở thành thương hiệu trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, Nhật Bản tiếp tục đẩy mạnh mở rộng ảnh hưởng ra nước ngoài để phát triển thương hiệu quốc gia và nâng cao hình ảnh hơn nữa. Trên thực tế, các tập đoàn, công ty lớn là những đại diện tiêu biểu cho hình ảnh thương hiệu quốc gia của Nhật Bản. Cùng với đó, hình ảnh thương hiệu quốc gia Nhật Bản không chỉ dừng lại ở chất lượng mà còn gắn với sự hấp dẫn về hệ thống quản lý, nhân lực chất lượng cao, phù hợp nhiều đối tượng… Để nâng cao hình ảnh thương hiệu quốc gia qua lĩnh vực khoa học - công nghệ, Nhật Bản còn tích cực triển khai thực thi bảo về quyền sở hữu trí tuệ và cạnh tranh đúng đắn. Theo đó, Nhật Bản vừa chú trọng đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ hơn nữa vừa nỗ lực ngăn chặn mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong và ngoài nước nhằm bảo vệ, nâng cao hình ảnh, uy tín của thương hiệu quốc gia trên toàn thế giới.
Chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia của Nhật Bản thực thi từ đầu thế kỷ XXI đến nay tuy có nhiều thành công rất đáng ghi nhận song vẫn còn những hạn chế, hay nói cách khác là chưa thành công liên quan tới chiến lược này. Trước hết, muốn phát triển thương hiệu quốc gia, Nhật Bản đều phải hướng tới mục tiêu lớn là mở rộng phạm vi, quy mô của thương hiệu quốc gia ra nước ngoài. Tuy nhiên, dù là xu thế tất yếu của thời đại toàn cầu hóa nhưng chắc chắn Nhật Bản vấp phải một trong những vấn đề phức tạp đó chính là quyền sở hữu trí tuệ. Trên thực tế, phát triển thương hiệu quốc gia ở nước ngoài không thể tránh được những bất lợi mà trước hết đó là khả năng duy trì nguồn nhân lực thấp. Sở dĩ như vậy là do tại nước ngoài, việc thay đổi công việc là điều bình thường nếu người lao động không hài lòng với chế độ đãi ngộ cũng như các nhu cầu khác về văn hóa, lối sống… Thêm nữa, việc tìm kiếm nhân sự để nhanh chóng “lấp đầy” khoảng trống nguồn nhân lực vừa mất đi lại không dễ dàng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Điều này cùng với vấn đề quyền sở hữu trí tuệ rõ ràng gây khó khăn cho phát triển, mở rộng thương hiệu quốc gia thuộc lĩnh vực khoa học - công nghệ của Nhật Bản ở nước ngoài. Một vấn đề nữa đó là chi phí lớn khi mở rộng quy mô thương hiệu quốc gia ở nước ngoài. Những chi phí lớn thường liên quan tới các khía cạnh như: nghiên cứu thị trường sở tại, nhu cầu người sử dụng, môi trường cạnh tranh và các chi phí về cơ sở hoạt động, nhân lực… Không thể phủ nhận rằng, việc chi phí lớn ảnh hưởng không nhỏ tới thành công của các thương hiệu quốc gia nếu không có các đối sách phù hợp. Bên cạnh đó, quyền sở hữu trí tuệ cũng luôn là vấn đề lớn đối với phát triển thương hiệu quốc gia ở nước ngoài. Sở dĩ như vậy là bởi những bất cập, sự “lỏng lẻo” liên quan tới vấn đề này tại quốc gia sở tại. Đây chính là một nguyên nhân gây cản trở không nhỏ tới sự mở rộng, phát triển của thương hiệu quốc gia Nhật Bản ở nước ngoài.
2. Quyền sở hữu trí tuệ trong chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia thông qua lĩnh vực văn hóa
Bên cạnh khoa học - công nghệ, Nhật Bản còn có nền văn hóa lâu đời với những di sản và truyền thống văn hóa không chỉ thu hút nước ngoài mà còn là điều mà thế giới có thể tự hào. Ngoài việc duy trì, kế thừa, phát triển, người Nhật Bản còn nhận thức đầy đủ về các giá trị văn hóa để phổ biến cả trong nước và quốc tế, qua đó phát triển thương hiệu quốc gia mạnh mẽ hơn nữa. Để thực hiện điều này, Nhật Bản luôn đề cao, tập trung vào phát triển thương hiệu về văn hóa vì những thành công mà lĩnh vực này mang lại là vô cùng lớn. Đương nhiên, để có được những thành công cho đến nay, Nhật Bản luôn nhấn mạnh đến quyền sở hữu trí tuệ bởi đây là nhân tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia thông qua văn hóa quốc gia.
Thực tế minh chứng, Nhật Bản coi văn hóa quốc gia là nhân tố then chốt của quyền lực mềm (văn hóa quốc gia, chính sách quốc gia, hệ giá trị quốc gia), do đó, “sự phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng của văn hóa không chỉ gia tăng sức mạnh của quyền lực mềm mà còn đưa văn hóa quốc gia lan tỏa trên thế giới”[4]. Thậm chí, cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, Nhật Bản còn hướng tới mục tiêu lớn hơn là “xuất khẩu” văn hóa ra nước ngoài. Để thực hiện ý tưởng này, Nhật Bản luôn đề cao phát triển thương hiệu quốc gia về văn hóa bởi những thành công có được từ trước, đặc biệt từ đầu thế kỷ XXI đến nay là không thể phủ nhận. Thực tế là câu trả lời rõ nhất về tính hiệu quả khi Nhật Bản “đầu tư” vào thương hiệu văn hóa quốc gia. Theo đó, chi phí cho quảng bá văn hóa có thể không cao nhưng lợi ích thu được nhiều khi vượt quá mong đợi và có tác dụng lâu dài. Đương nhiên, những gì Nhật Bản quảng bá về văn hóa với thế giới là bản sắc cùng sự tinh túy của văn hóa quốc gia song nước này vẫn muốn “hiện đại hóa” văn hóa phù hợp với xu thế văn hóa của thế giới ngày nay. Rõ ràng, truyền tải văn hóa cùng hệ thống giá trị của nó là mục tiêu hướng tới của Nhật Bản khi giới thiệu, quảng bá văn hóa với các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, Nhật Bản nhận thức rất rõ là để đạt được những thành công ở trong nước và quốc tế, đồng thời chống lại nguy cơ suy giảm về thương hiệu quốc gia nhất định phải có một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thật sự hiệu quả. Trên thực tế, các phương thức của chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia luôn được đồng thời triển khai gắn với quyền sở hữu trí tuệ nhằm hỗ trợ hiệu quả cho các hoạt động văn hóa. Trước hết, phổ biến sâu rộng văn hóa ở trong nước và tạo ra môi trường mới mọi người có thể tận hưởng kết quả nhiều nhất. Tiếp đó, thúc đẩy việc trao đổi, quan hệ đa dạng hơn giữa Nhật Bản với nước ngoài thông qua các hình thức mới, phổ biến các sản phẩm mới được tạo ra trong nước và quốc tế. Rõ ràng, Nhật Bản luôn hướng đến việc bảo tồn, sử dụng toàn diện các tài sản văn hóa quốc gia, tạo nên sức hấp dẫn với thế giới như một thương hiệu quốc gia về văn hóa. Ngoài ra, Nhật Bản còn chủ động sử dụng nhiều phương cách bao gồm cả việc áp dụng quyền sở hữu trí tuệ một cách phù hợp để nâng cao cơ hội người dân trong nước tiếp xúc với những tài sản văn hóa quốc tế.
Như đã đề cập, văn hóa quốc gia là yếu tố then chốt của quyền lực mềm, do vậy được Nhật Bản sử dụng như một phương tiện hữu hiệu trong việc quảng bá, tạo sức cuốn hút, hấp dẫn đất nước, con người với thế giới. Quá trình này đòi hỏi về thời gian, phương cách đa dạng song tựu trung là hướng tới mục tiêu quảng bá nền văn hóa quốc gia trên toàn thế giới. Phát triển thương hiệu quốc gia trong lĩnh vực văn hóa được Nhật Bản đặc biệt chú trọng như một chính sách nhất quán trong phát triển đất nước. Theo đó, phát triển thương hiệu quốc gia về văn hóa chính là truyền tải văn hóa và hệ thống giá trị của nó tới đời sống văn hóa thế giới ngày nay. Với thế giới, Nhật Bản phát triển văn hóa để tạo ra nguồn lực dồi dào, sáng tạo, lôi cuốn để cuối cùng ngày càng có nhiều người nước ngoài có thiện cảm với đất nước, con người Nhật Bản. Thực tế cho thấy, Nhật Bản dường như đã thành công khi lựa chọn văn hóa là nền tảng, cội nguồn, động lực để vừa giữ gìn bản sắc mà vẫn gia tăng sự hấp dẫn, lôi cuốn với thế giới bên ngoài lãnh thổ quốc gia. Tuy nhiên, “cùng với quá trình này, Nhật Bản không thể tránh khỏi đối mặt với vấn đề vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực văn hóa”[5]. Trên thực tế, đây là một vấn nạn trên thế giới, do đó, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ mà Nhật Bản triển khai chắc chắn còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Mặc dù vậy, cùng với thời gian và sự nỗ lực của Nhật Bản, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng hoàn thiện hơn. Chính vì vậy, chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia Nhật Bản ngày càng đạt được những thành tựu khả quan trong lĩnh vực văn hóa. Cho đến nay, về cơ bản có thể khẳng định rằng Nhật Bản đã thiết lập được một hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền liên quan khá hoàn thiện, là cơ sở vững chắc để phát triển thương hiệu quốc gia về văn hóa Nhật Bản. Đương nhiên, cùng với quá trình này là sự giảm thiểu hoặc loại bỏ những tồn tại, bất cập về quyền sở hữu trí tuệ để hướng tới những chuẩn mực cao hơn phù hợp với quy chuẩn trong nước và quốc tế. Với nền tảng như vậy, Nhật Bản tự tin sử dụng phương thức thúc đẩy đa dạng văn hóa ở trong nước và quốc tế để từ đó nâng cao thương hiệu quốc gia hơn nữa. Trên thực tế, việc phổ biến về đa dạng văn hóa đồng hành với trao đổi, giao lưu văn hóa quốc tế không những không làm mất đi các giá trị văn hóa quốc gia mà trái lại làm lan tỏa văn hóa Nhật Bản, cải thiện hình ảnh cùng sự hiểu biết lẫn nhau với các quốc gia khác.
Hiện nay, khi bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (hay còn gọi cách mạng 4.0) thì tác động của thương hiệu quốc gia Nhật Bản về văn hóa với khu vực và thế giới càng trở nên rõ hơn bao giờ hết. Tác động này thể hiện rõ trong lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là văn hóa đại chúng (truyện tranh, phim hoạt hình, thời trang, ẩm thực, trò chơi điện tử…). Hơn nữa, để có được tác động tích cực về văn hóa với mỗi khu vực, mỗi quốc gia, Nhật Bản luôn sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ có tính chuyên biệt cao. Chính điều này giúp cho chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia của Nhật Bản có nhiều thành tựu qua lĩnh vực văn hóa, góp phần quan trọng nâng cao hình ảnh quốc gia và vị thế trên thế giới. Thật vậy, “vượt qua cả sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, chủng tộc, các sản phẩm văn hóa Nhật Bản ở bất cứ đâu cũng được chào đón nồng nhiệt bởi nhiều tầng lớp, đặc biệt để lại dấu ấn sâu đậm trong giới trẻ”[6]. Ngoài lợi nhuận về kinh tế, những sản phẩm về văn hóa này còn gián tiếp là phương tiện quảng bá văn hóa Nhật Bản ra nước ngoài tạo nên một hình ảnh về một quốc gia nhiều ấn tượng tốt đẹp (Cool Japan) trong lòng cộng đồng quốc tế. Hơn thế nữa, một khi văn hóa phát triển lan tỏa mạnh mẽ như thế thì những sản phẩm của lĩnh vực này đã và đang trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Nhật Bản. Đương nhiên, dù có được những thành công như thế nhưng Nhật Bản vẫn phải đối mặt với những vấn đề liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ ở trong nước cũng như quốc tế. Sở dĩ như vậy là do trong quá trình phát triển thương hiệu quốc gia liên quan tới lĩnh vực văn hóa (bao gồm cả công nghiệp văn hóa) phải tuân thủ nghiêm luật để tránh những vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ sẽ gây thiệt hại lớn tới thương hiệu quốc gia. Khi đề cập tới quyền sở hữu trí tuệ cũng tức là nói tới các yếu tố cơ bản khác như: quyền thương hiệu, quyền sáng chế, quyền kiểu dáng, quyền mẫu mới… mà bất cứ quốc gia nào cũng phải tuân thủ nếu không muốn bị “trừng phạt”. Trong quá trình phát triển thương hiệu quốc gia thông qua lĩnh vực văn hóa, Nhật Bản coi quyền sở hữu trí tuệ như một phương tiện hữu hiệu để vận dụng triệt để và đạt được hiệu quả như mong muốn. Thực tế cho thấy, chính ngành công nghiệp văn hóa là một phần không thể thiếu trong chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia nên được chính phủ và người dân Nhật Bản quan tâm đặc biệt cho dù đây là một trong những ngành đòi hỏi rất cao về quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, do thường xuyên được vận dụng phù hợp các yếu tố kể trên cho nên không khó lý giải về những thành tựu đạt được của công nghiệp văn hóa Nhật Bản từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Thành quả mà nền công nghiệp văn hóa Nhật Bản mang lại không chỉ dừng lại ở những giá trị văn hóa mà còn ở những giá trị về kinh tế, chính trị, ngoại giao. Qua đó, nâng cao hình ảnh của nước Nhật đầy ấn tượng và cuốn hút trên thế giới.
Sự phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng của văn hóa Nhật Bản (đặc biệt về văn hóa đại chúng) tới đời sống văn hóa thế giới ngày nay đã trở thành nền tảng để chính phủ nước này nêu quan điểm rõ ràng, phát triển thương hiệu quốc gia trong lĩnh vực văn hóa là một trong những chính sách quan trọng nằm trong chiến lược phát triển đất nước. Nhật Bản hết sức đề cao phát triển thương hiệu quốc gia về văn hóa trong thời đại toàn cầu hóa bởi sự hữu ích của nó. Thật vậy, “chi phí cho thương hiệu văn hóa có thể không cao song lợi ích thu được lại không nhỏ và có tác dụng lâu dài. Không những thế, “đầu tư” vào thương hiệu văn hóa ít rủi ro mà hiệu quả đạt được có khi vượt qua sự mong đợi, đó là chưa tính đến nguồn thu lớn về kinh tế”[7]. Chính vì vậy, Nhật Bản đưa ra mục tiêu và khả năng đạt được thông qua các giá trị của phát triển thương hiệu quốc gia trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời đòi hỏi thực thi quyền sở hữu trí tuệ đúng đắn nhất. Quyền sở hữu trí tuệ khi được thực thi như mong muốn sẽ trở thành nền tảng vững chắc cho chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, phát triển thương hiệu quốc gia về văn hóa, Nhật Bản rất chú trọng tới việc hoàn thiện hơn nữa về quyền sở hữu trí tuệ nhằm thích ứng với những thay đổi qua mỗi giai đoạn từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Chính vì có sự áp dụng nhuần nhuyễn về quyền sở hữu trí tuệ mà Nhật Bản có được nhiều thành tựu về công nghiệp văn hóa nói riêng, văn hóa quốc gia nói chung. Ngược lại những vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ cũng ít nhiều gây trở ngại cho chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia liên quan tới lĩnh vực văn hóa. Do đó, phía Nhật Bản luôn dùng luật pháp và các hình thức tương thích để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mỗi khi bị vi phạm, qua đó tạo nên xung lực mới cho chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia thông qua lĩnh vực văn hóa quốc gia.
3. Kết luận
Nhật Bản luôn coi quyền sở hữu trí tuệ không thể tách rời trong chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia, bởi vì đây là một trong những nhân tố quan trọng bảo chứng cho sự thành công của thương hiệu quốc gia từ trước đến nay. Qua quá trình xây dựng, phát triển lâu dài của chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia, đặc biệt từ đầu thế kỷ XXI đến nay cho thấy quyền sở hữu trí tuệ ở Nhật Bản có độ tin cậy cao và hiệu quả. Sở dĩ như vậy là do Nhật Bản luôn chú trọng đến quyền sở hữu trí tuệ trong tất cả các lĩnh vực thuộc chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia.
Quá trình xây dựng, phát triển thương hiệu quốc gia thông qua lĩnh vực khoa học - công nghệ và văn hóa của Nhật Bản cho thấy quyền sở hữu trí tuệ trong thời kỳ hội nhập, toàn cầu hóa vẫn phải đối mặt với những thách thức mới trước vấn nạn vi phạm bản quyền, tranh chấp sở hữu trí tuệ. Chính vì lẽ đó, chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia của Nhật Bản cần phải thích ứng, đồng thời thể hiện sự tích cực chống các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thông qua việc phối hợp với các quốc gia, tổ chức quốc tế. Chỉ có hành động như vậy thì Nhật Bản mới có thể giảm tối đa sự vi phạm đồng thời tạo cơ chế hợp tác, phòng chống tích cực có hiệu quả về quyền sở hữu trí tuệ trong tất cả các lĩnh vực của thương hiệu quốc gia.
Quyền sở hữu trí tuệ là nguồn tài nguyên quý cần được duy trì, bảo vệ cho hiện tại và tương lai, do đó, Nhật Bản luôn thể hiện tính tích cực trong việc củng cố tài sản trí tuệ của mình trên toàn cầu để nâng cao hơn nữa giá trị thương hiệu quốc gia. Nhận thức và hành động của Nhật Bản không gì khác hơn là nhằm bảo vệ cho chính mình, đồng thời nâng cao vị thế, hình ảnh của đất nước thông qua thương hiệu quốc gia, đặc biệt là ở những lĩnh vực nổi trội như khoa học - công nghệ, văn hóa. Tuy vậy, như nhiều quốc gia khác, Nhật Bản cũng không tránh khỏi sự vi phạm bản quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình phát triển thương hiệu quốc gia. Do đó, Nhật Bản luôn phải đổi mới cơ chế, chính sách, luật pháp để thích ứng với mỗi giai đoạn phát triển, đồng thời nỗ lực hướng tới sự bảo hộ mạnh mẽ hơn bằng luật sở hữu trí tuệ ở mức độ hoàn thiện nhất có thể. Nhật Bản cũng tích cực tham gia vào hệ thống bản quyền của thế giới nhằm giám sát, thống nhất quy chế xét duyệt bản quyền, qua đó ngăn chặn, giải quyết tranh chấp, xét xử các hành vi vi phạm bản quyền. Đó là mục tiêu hướng tới một quy chế hoàn thiện về quyền sở hữu trí tuệ đủ mạnh để bảo đảm lợi ích trong quá trình phát triển, nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia.
Các vấn đề liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ gắn với những lĩnh vực nổi trội của Nhật Bản (khoa học - công nghệ, văn hóa) đặc biệt được chú trọng vì các lĩnh vực này ảnh hưởng lớn tới thành công hay thất bại của chiến lược phát triển thương hiệu quốc gia. Với các lĩnh vực quan trọng, có thế mạnh vượt trội, Nhật Bản đều khẳng định quyền sở hữu trí tuệ đang nắm giữ, đồng thời đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa hoạt động sở hữu trí tuệ như một cơ chế hợp tác cần phải có giữa các quốc gia. Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng đặc biệt quan tâm tới vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm hướng tới đạt tiêu chuẩn quốc tế như mong đợi của hầu hết các quốc gia. Trên cơ sở này, Nhật Bản có thể vươn tới bước phát triển mới về thương hiệu quốc gia trên toàn cầu thông qua nhiều lĩnh vực, đặc biệt là khoa học - công nghệ và văn hóa. Cùng với đó là sự thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao khả năng cạnh tranh, tất cả đều nhằm mở rộng, phát triển nhanh chóng các lĩnh vực thuộc thương hiệu quốc gia. Những động thái của Nhật Bản đều nhằm củng cố, bảo vệ hình ảnh, uy tín thương hiệu quốc gia trong nước và quốc tế. Hơn thế nữa, đó còn là lan tỏa sự đa dạng văn hóa và hiểu biết lẫn nhau giữa Nhật Bản với cộng đồng quốc tế. Tất cả sẽ thúc đẩy thương hiệu quốc gia Nhật Bản ngày càng có được uy tín, vị thế nâng cao trên thế giới hiện nay và tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. 平野健-郎(2000)、 国際文化論東京大学出版 会 (Hiranoken Ichiro (2000), Lý luận về văn hóa quốc tế, Nxb Đại học Tokyo).
2. 斎 藤 修 (2010) 、龙域ブランドをめぐる 戦略 的課題と管理 体系 (Saito Osamu (2010), Hệ thống quản lý và đề án chiến lược xung quanh thương hiệu khu vực).
3. 伊部泰弘 (2002) 、プライベートブランド 開発の 現代意義, 龍谷大学経営学論集 (Yasuhiro Ibeta (2002), Ý nghĩa của phát triển thương hiệu riêng, Tổng luận Kinh doanh học, Đại học Ryuori).
4. 根本重之 (1995), NBとPBの競争戦略、中央経済 社 (Nemoto Shigeyuki (1995), Chiến lược cạnh tranh của thương hiệu riêng và thương hiệu quốc gia, Nxb Kinh tế Chuo).
5. 根本 重之 (1995), プライベートブランドーNBとPBの競争戦略、中央経済社 (Nemoto Shigeyuki (1995), Chiến lược cạnh tranh của thương hiệu riêng và thương hiệu quốc gia, Nxb KeizaiChuo).
6. 金子将史、「国家ブランディングと日本の課題」、『PHP Policy Review』Vol.3 – No.16, PHP総合研究所、 2009年 (Masafumi Kaneko (2009), “Xây dựng thương hiệu quốc gia và những vấn đề của Nhật Bản”, PHP Policy Review, Vol.3 - No.16).
7. コンテンツ専門調査会, 知的財産戦略本部(2005).日本ブランド 戦略の推進 ― 魅力ある日本を世 界に発信 ― (Thúc đẩy Chiến lược Thương hiệu Quốc gia Nhật Bản – Thông điệp về sức hút Nhật Bản, 2005), https://www.kantei.go.jp/jp/ singi/titeki2/tyousakai/contents/houkoku/050225hontai.pdf.
8. 佐藤可士和 (2020), 日本ブランド戦略2020 ― 国家ブランドについての提言 - (Chiến lược Thương hiệu Nhật Bản 2020: Khuyến nghị về Thương hiệu quốc gia), https://www5.cao.go.jp/keizaishimon/kaigi/special/future/wg1/0730/shiryou_03_1.pdf.
[1] TS., Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
[2] 伊部泰弘 (2002) 、プライベートブランド 開発の 現代意義, 龍谷大学経営学論集 (Yasuhiro Ibeta (2002), Ý nghĩa của phát triển thương hiệu riêng, Tổng luận Kinh doanh học, Đại học Ryuori), tr. 25.
[3] 根本重之 (1995), NBとPBの競争戦略, 中央経済 社 (Nemoto Shigeyuki (1995), Chiến lược cạnh tranh của thương hiệu riêng và thương hiệu quốc gia, Nxb Kinh tế Chuo), tr. 18.
[4] 平野健-郎(2000)、国際文化論東京大学出版 会(Hiranoken Ichiro (2000), Lý luận về văn hóa quốc tế, Nxb. Đại học Tokyo), tr. 65.
[5]金子将史、「国家ブランディングと日本の課題」、 『PHP Policy Review』Vol.3 – No. 16, PHP 総 合研究所, 2009年 (Masafumi Kaneko (2009), Xây dựng thương hiệu quốc gia và những vấn đề của Nhật Bản, PHP Policy Review, Vol.3 - No.16), tr. 115.
[6] コンテンツ専門調査会, 知的財産戦略本部 (2005), 日本ブランド 戦略の推進 ― 魅力ある日本を世 界に発信 ― (Thúc đẩy Chiến lược Thương hiệu quốc gia Nhật Bản –Thông điệp về sức hút Nhật Bản, 2005), https://www. kantei.go.jp/jp/singi/titeki2/tyousakai/contents/houkoku/ 050225hontai.pdf. tr. 38.
[7] 佐藤可士和 (2020), 日本ブランド戦略2020 ― 国家 ブランドについての提言 - (Chiến lược Thương hiệu Nhật Bản 2020: Khuyến nghị về thương hiệu quốc gia) https://www5.cao.go.jp/keizaishimon/kaigi/special/future/ wg1/0730/shiryou_03_1.pdf, tr. 216.