Quan niệm lấy chồng gần hơn lấy chồng xa được hình thành suốt hàng nghìn năm thời phong kiến đã đi vào ca dao dân ca của người Việt ta như vậy. Người Việt trong quá khứ không muốn lấy chồng xứ lạ, cha mẹ không muốn gả con gái cho "thiên hạ", mà chỉ mong sum vầy trong cùng một luỹ tre làng. Ngày nay, do xu hướng hội nhập và giao lưu quốc tế mở rộng, người nước ngoài đến Việt Nam cũng như người Việt Nam sang nước ngoài học tập, du lịch, làm ăn sinh sống, đầu tư... ngày một nhiều, và tất nhiên, tình yêu và hôn nhân giữa người Việt với người nước ngoài không còn là điều hy hữu. Từ đó, quan niệm lấy chồng gần xa cũng dần dần thay đổi và không bị khinh thị như xưa nữa. Nói như vậy không có nghĩa là đã thay đổi hoàn toàn, quan niệm cũ vẫn tồn tại trong ý nghĩ sâu thẳm và có dịp bùng lên khi gặp những cảnh éo le, trớ trêu của những cuộc hôn nhân bất hạnh.
Đối với mỗi dân tộc, văn học dân gian là tấm gương soi hình bóng của dân tộc mình. Để hiểu một dân tộc không gì tốt hơn là tìm hiểu vốn văn hoá dân gian của dân tộc đó. Trong bài viết này, chúng tôi muốn khảo sát một tác phẩm văn học dân gian của Nhật Bản, tác phẩm Nhật Bản Linh Dị Ký. Tác phẩm này không chỉ có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu Nhật Bản, nó còn có ý nghĩa trong việc nghiên cứu lịch sử văn học so sánh ở Đông Á. Có rất nhiều truyện trong tác phẩm này có nội dung giống với truyện kể của Việt Nam. Thông qua việc khảo sát tác phẩm này, có thể tìm ra những mô típ tương đồng và dị biệt với truyện cổ của Việt Nam, tìm ra cách lý giải sự tương đồng và dị biệt giữa hai nền văn hoá của hai nước. Từ đó càng hiểu thêm nền văn hoá Nhật Bản, một nền văn hoá rất gần gũi với chúng ta.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và việc Việt Nam ra nhập WTO, chắc chắn quan hệ kinh tế -văn hóa giữa Việt Nam với các nước trên thế giới trong đó có khu vực Đông Bắc Á sẽ ngày một phát triển hơn. Cùng với sự gia tăng đầu tư trực tiếp,quan hệ buôn bán, trao đổi văn hóa,v.v.. số lượng người từ các nước thuộc khu vực Đông Bắc Á đến Việt Nam làm ăn cũng ngày một gia tăng, kéo theo sự gia tăng các cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam với công dân của các quốc gia trong khu vực.
Tháng 8/1985, Thủ tướng Nhật Bản là Nakasone Yasuhiro đến thăm đền Yasukuni ở Tokyo đã làm bùng phát một vụ rắc rối về ngoại giao giữa nước ông với một số quốc gia Châu Á. Sáu năm sau, cuộc thăm đền của Thủ tướng Koizumi Junichiro lại làm nảy sinh mâu thuẫn với Trung Quốc và Hàn Quốc. Ngay trong nước Nhật, cuộc chính thức thăm đền của người đứng đầu chính phủ cũng gây tranh cãi dữ dội giữa phái tả và phái hữu. Vậy đền Yasukuni có ý nghĩa như thế nào đối với xã hội Nhật Bản cũng như đối với quan hệ giữa nước đó với các quốc gia láng giềng?
Từ đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX đến nay, chương trình hạt nhân của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Triều Tiên luôn là vấn đề gây ra những rắc rối trong quan hệ quốc tế. Xét từ tình hình thực tế hiện nay, cho dù CHDCND Triều Tiên là chủ thể của vấn đề, nhưng giải quyết vấn đề này như thế nào không chỉ phụ thuộc vào CHDCND Triều Tiên mà ở một mức độ rất lớn lại chịu sự chi phối của 2 nước lớn là Trung Quốc và Mỹ. Mỹ cho rằng CHDCND Triều Tiên có vũ khí hạt nhân sẽ đe doạ ngay chính nước Mỹ.
Nếu như Trung Quốc hay Nhật Bản là các quốc gia nổi tiếng về nghệ thuật tạo hình như kiến trúc, thư pháp, hội họa và các nghề thủ công truyền thống... thì Hàn Quốc lại là quốc gia Đông Á nổi tiếng với các bộ môn nghệ thuật biểu diễn. Có thể nói, hiếm có đất nước nào mà kho tàng âm nhạc và các điệu múa dân gian lại giàu có và phong phú như ở Hàn Quốc. Trong làn sóng phát triển của xã hội hiện đại, những tài sản văn hóa quý báu này không bị mất đi mà ngược lại, nó được các nghệ sĩ Hàn Quốc cố gắng kết hợp với các yếu tố văn hóa mới để phù hợp với nhịp tiến của xã hội.
Lịch sử Việt Nam thời cận đại chứng kiến những biến động mang tính xung đột xảy ra không chỉ ra trong c¸c cuộc chiến tranh giữ nước hùng tráng của dân tộc mà còn trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó cã văn hóa. Đặc biệt, trong thời kỳ này, văn hóa Việt Nam không nằm ngoài ảnh hưởng của làn sóng phương Tây hóa ồ ạt. Nhật Bản thời kỳ Minh Trị cũng trải qua giai đoạn chuyển biến tương tự, là “một ví dụ đầu tiên và gây choáng váng nhất của quá trình phương Tây hóa ở một vùng đất ngoài phương Tây”. Quá trình chuyển đổi đó, dưới sức ép của thế lực thực dân như đối với trường hợp Việt Nam, và với chính sách mở cửa mang tính tự nguyện như ở Nhật Bản, đã được thể hiện trong giáo dục rõ nét hơn ở mọi lĩnh vực nào khác.
Trong tiếng Nhật hiện đại, người Nhật sử dụng khá nhiều phó từ. Phó từ là những từ không mang nghĩa từ vựng như danh từ, tính từ, động từ. Hầu như chúng không có khả năng đứng độc lập làm thành phần chính của câu mà chỉ có vai trò trợ nghĩa cho động từ, tính từ, danh từ và cho cả câu.
Trong những năm gần đây, liên kết Đông Á trở thành đối tượng được quan tâm của các nhà chính trị, kinh tế và đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học. Trong thực tiễn, mặc dù còn nhiều khó khăn, cản trở trên con đường hội nhập, song hợp tác khu vực Đông Á đã đạt được những thành tựu nhất định nhờ sự nỗ lực chung của cả cộng đồng các nước Đông Á. Để góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập và hợp tác Đông Á, việc hiểu rõ những thành tựu và nhận thức ra những vấn đề tồn tại trên bước đường tiến tới hội nhập là không thể thiếu được trong việc tìm cách khắc phục những khó khăn, trở ngại và tận dụng những cơ hội để từng bước tiến tới hội nhập khu vực Đông Á.
Trong hơn 15 năm qua, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Đài Loan cũng như quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đều phát triển rất nhanh. Liên quan chặt chẽ đến hiện tượng này là quá trình toàn cầu hóa và tiến triển nhanh chóng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của cả 3 nền kinh tế Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Hội nhập quốc tế là một quá trình các nỗ lực hội nhập của các nền kinh tế đề cập được thực hiện từ nhiều năm. Kết quả của những nỗ lực lớn lao này, như đã biết, Đài Loan và Trung Quốc đã gia nhập WTO từ năm 2001 và Việt Nam cũng gia nhập WTO từ năm 2006.