Quan hệ tam giác Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản có vai trò quan trọng trong việc thiết lập cục diện quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Á. Trong mức độ nhất định, cấu trúc quan hệ này đang trực tiếp thúc đẩy và quyết định chiều hướng vận động của tiến trình hợp tác phát triển khu vực. Bài viết vận dụng phương pháp phân tích quan hệ “Tam giác chiến lược” để tìm hiểu quan hệ tương hỗ giữa Trung Quốc, ASEAN và Nhật Bản, qua đó đưa ra những khả năng và triển vọng về mô hình nhất thể hóa Đông Á trong tương lai.
1. Về vấn đề “Quan hệ tam giác”
Khi đề cập đến các mối quan hệ trong hệ thống chính trị quốc tế, chúng ta thường dùng khái niệm “Quan hệ tam giác” để chỉ tập hợp các hành vi tích cực hoặc tiêu cực tạo thành quan hệ giữa 3 bên (quốc gia, tổ chức). Trong cấu trúc quan hệ này, hành vi của một nước có thể ảnh hưởng tới hành vi của một hoặc hai nước còn lại, hay sự biến đổi của một cặp quan hệ trong đó sẽ dẫn đến sự biến đổi của một hoặc hai cặp quan hệ song phương khác. Thông thường, sự hình thành quan hệ tam giác cần có hai điều kiện: Một là, các chủ thể tham gia quan hệ này phải là lực lượng trung tâm của khu vực hoặc thế giới; Hai là, mỗi một cặp quan hệ song phương bất kì trong 3 cặp quan hệ đều tạo nên ảnh hưởng (hoặc ẩn hoặc hiện) đối với nước thứ ba, đồng thời giữa các bên tồn tại quan hệ tương tác và chế ước lẫn nhau. Nhà chính trị học người Mỹ Lowell Dittmer đã căn cứ vào xu hướng đối địch hay thân thiện giữa các bên để chia quan hệ tam giác thành bốn dạng khác nhau đó là: “Tam giác lãng mạn” (Romantic Triangle), “3 người cùng chung sống”, “Hôn nhân ổn định” (Stable Marriage) và “3 người sống độc lập” ([1]).
Thứ nhất, “Tam giác lãng mạn”, là quan hệ được thiết lập trong đó có 1 nước đóng vai trò “trục chính” và 2 nước còn lại được ví như “hai cánh” của “trục chính”, hai nước này thường là đối kháng nhau. Nước đóng vai trò trung tâm sẽ có nhiều cơ hội dành được ưu thế lớn. Nước này có thể đạt được nhiều lợi ích chiến lược thông qua phát huy vai trò chủ đạo của mình và thực hiện chính sách cùng chung sống hòa bình với hai nước còn lại.
Thứ hai, “3 người cùng chung sống”, được tạo thành bởi quan hệ hòa thuận và đối xứng giữa ba bên. Theo lý thuyết, căn cứ vào sự thỏa mãn lợi ích của các bên tham gia cạnh tranh, hợp tác mang lại hiệu quả tối đa nhất là hình thức “3 người cùng chung sống”. Nó có thể giữ được thế cân bằng và kích thích các bên hợp tác phát triển một cách ổn định. Nhưng nếu xuất phát từ góc độ của nước tham gia thì đây không phải là hình thức an toàn nhất. Bởi lẽ, nước thứ nhất có thể biết được mục đích và động cơ của đối tượng trực tiếp đàm phán (nước thứ hai) nhưng sẽ không thể khẳng định được mối quan hệ của nước thứ hai với nước thứ ba có phù hợp lợi ích của mình hay không, trừ khi hai nước này có biểu hiện đối kháng rõ ràng.
Thứ ba, “Hôn nhân ổn định”, nghĩa là hai trong số ba nước thiết lập quan hệ ổn định với nhau và cùng đối kháng với nước thứ ba. Trong tam giác quan hệ này, nước thứ ba thường cố gắng xây dựng quan hệ tốt với một trong hai nước kia (hoặc cả hai) để giảm bớt mức độ căng thẳng và tránh phải chịu thêm những bất lợi về mình.
Thứ tư, “3 người sống độc lập”, dùng để chỉ trạng thái đối lập lẫn nhau, không hình thành cấu trúc lợi ích chung và quan hệ đối tác ổn định giữa 3 bên.
Đặt giả thiết, sự cạnh tranh trong quan hệ tam giác phát triển một cách tự nhiên theo hướng các bên tham gia có thể dùng chi phí thấp nhất để dành được lợi ích lớn nhất. Dựa vào tiền đề này, quan hệ giữa các bên sẽ phát triển tích cực đi lên, nghĩa là từ hình thức “3 người sống độc lập” phát triển đến “Hôn nhân ổn định”, “Tam giác lãng mạn”, và tiếp sau đó sẽ đi đến hình thức “3 người cùng chung sống”([2]). Tuy nhiên, diễn biến thực tế trong “Quan hệ tam giác” từ chiến tranh thế giới thứ hai đến nay cho thấy, hai hình thức “Hôn nhân ổn định” và “Tam giác lãng mạn” thường gặp nhiều hơn, còn các hình thức “3 người cùng chung sống”, “3 người sống độc lâp” rất ít khi xuất hiện.
2. Cấu trúc quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản với các mô hình nhất thể hóa khu vực Đông Á
Ở phần này, chúng tôi căn cứ vào bốn hình thức chủ yếu trong quan hệ tam giác để suy đoán sự biến đổi trong cấu trúc quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản và tương ứng với đó là bốn khả năng khác nhau về mô hình nhất thể hóa Đông Á.
- Mô hình “Tam giác lãng mạn”. Ở mô hình này, ASEAN sẽ đứng ở vị trí trung tâm và trở thành lực lượng chủ đạo của tiến trình nhất thể hóa Đông Á. Trung Quốc và Nhật Bản sẽ tiếp tục tham gia các khuôn khổ hợp tác do các nước ASEAN khởi xướng và chủ trì. Cơ chế hoạt động chủ yếu và có thể mang lại lợi ích hợp tác lớn cho các bên ở mô hình này là “ASEAN+3” (ASEAN+Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc). Tuy nhiên, để duy trì tồn tại lâu dài và phát huy được tính hiệu quả, tác dụng của nó cần phải thỏa mãn hai điều kiện: Một mặt, nội bộ các nước thành viên ASEAN về cơ bản có được nhận thức chung trong vấn đề nhất thể hóa khu vực. Nền kinh tế, chính trị khu vực Đông Nam Á phát triển ổn định. Bộ máy tổ chức và các cơ chế hoạt động của ASEAN không ngừng được hoàn thiện, hiệu quả hoạt động tiếp tục được nâng cao. Các mục tiêu của ASEAN về xây dựng Khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), xây dựng Cộng đồng ASEAN, Khu mậu dịch tự do giữa ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.v.v... được triển khai thực hiện có hiệu quả và đúng lộ trình đã đề ra; Mặt khác, hai nước Trung Quốc và Nhật Bản vẫn chưa thể có được những giải pháp tốt nhất cho các bất đồng chính trị và xung đột lợi ích chiến lược. Và hai nước này đều tiếp tục dựa vào khuôn khổ và các cơ chế hoạt động của tổ chức ASEAN để tiến hành hợp tác khu vực.v.v...
- Mô hình “3 người cùng chung sống”. Trung Quốc, ASEAN và Nhật Bản cùng ở trạng thái quan hệ bình đẳng và tương đối ổn định. Dựa vào ưu thế của nền kinh tế xếp thứ 3 và thứ 2 thế giới, Trung Quốc và Nhật Bản sẽ cùng kết hợp trở thành lực lượng chủ đạo thúc đẩy tiến trình nhất thể hóa Đông Á, ASEAN sẽ ở vào vị trí đi theo sau. Mô hình này giống với quá trình nhất thể hóa của Liên minh châu Âu trong đó Pháp và Đức là những nước đóng vai trò dẫn dắt các nước còn lại. Với đặc điểm và tình hình của khu vực Đông Á, mô hình này phải dựa trên các điều kiện: Đầu tiên, quan hệ chính trị giữa Trung Quốc và Nhật Bản có những bước đột phá căn bản về xây dựng lòng tin, giải quyết các tranh chấp, nghi kị lẫn nhau bao gồm những mâu thuẫn liên quan tới vấn đề lịch sử, lãnh thổ..., từ đó xác lập quan hệ đối tác chiến lược thực sự. Đồng thời, cả hai nước này cùng có quyết tâm cao độ trong việc thực hiện nhất thể hóa khu vực; Tiếp theo, các nước ASEAN do thiếu sự nhất trí về chính trị dẫn đến nội bộ phân rẽ, không có được thống nhất chung trong xây dựng và bảo vệ khu vực Đông Nam Á. Kinh tế ASEAN phát triển chậm và lạc hậu nhiều so với Trung Quốc, Nhật Bản. Hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức ASEAN thấp kém làm cho uy tín và sức hấp dẫn đối với các nước trong và ngoài khu vực giảm sút.v.v...
- Mô hình “Hôn nhân ổn định”. Trung Quốc có thể tiếp tục đẩy mạnh chiến lược hướng về Đông Nam Á và cố gắng thiết lập quan hệ liên minh ổn định với ASEAN để kiềm chế Nhật Bản. Cả Trung Quốc và ASEAN cùng giữ quan hệ đối kháng ở mức độ nhất định với Nhật Bản, trong đó đối kháng giữa Trung - Nhật lớn hơn đối kháng ASEAN - Nhật Bản. Trung Quốc với ưu thế về kinh tế - quốc phòng làm cho ASEAN ngày càng phụ thuộc vào mình, từ đó trở thành lực lượng chủ đạo trong hợp tác Đông Á. Nhật Bản do không chấp nhận sự lãnh đạo của Trung Quốc nên quyết định đứng ngoài tiến trình hợp tác (giống với quan hệ giữa Anh với với Liên minh châu Âu trước thập niên 70 của thế kỉ 20). Dĩ nhiên, điều kiện xuất hiện trạng thái này là: Kinh tế Trung Quốc luôn duy trì tốc độ phát triển nhanh và bỏ Nhật Bản lại phía sau; Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN vận hành có hiệu quả. Mức độ phụ thuộc kinh tế, chính trị... giữa Trung Quốc và ASEAN ngày càng thắt chặt trong đó Trung Quốc chiếm phần hơn về lợi thế so sánh; Mức độ bị động, phụ thuộc vào đồng minh Mỹ (nhất là về chính sách đối ngoại) của Nhật Bản tăng cao. Kinh tế tiếp tục đi vào khủng hoảng suy thoái... làm cho Nhật Bản đánh mất vị trí và ưu thế của nước dẫn đầu khu vực Đông Á.v.v...
- Mô hình “Ba người sống độc lập”. Trong trường hợp này, giữa các bên Trung Quốc, ASEAN và Nhật Bản không những không hình thành cấu trúc lợi ích chung và quan hệ đối tác ổn định, mà còn bộc lộ trạng thái hoàn toàn đối lập nhau. Trung Quốc thực hiện tham vọng lãnh đạo khu vực bằng cách: thông qua tăng cường đầu tư vào các quốc gia Đông Nam Á và không ngừng đẩy mạnh hợp tác thương mại với ASEAN để nắm lấy huyết mạch kinh tế và điều khiển quá trình hợp tác với các nước ASEAN. Theo đó, nhân dân tệ trở thành đồng tiền chung của khu vực và ASEAN buộc phải đi theo khung hợp tác mới do Trung Quốc đề ra. Sự lớn mạnh toàn diện và địa vị ngày càng cao của Trung Quốc ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, Đông Á nói chung, sẽ làm cho Nhật Bản không có cách nào khác là phải cạnh tranh, đối kháng với Trung Quốc trong việc dành quyền lãnh đạo khu vực. Sự đối đầu căng thẳng giữa hai nước lớn Trung, Nhật và những hệ lụy của nó sẽ gây nên những bất ổn đối với Đông Á. Khả năng diễn ra một cuộc chiến trạnh lạnh mới ở phạm vi khu vực là rất lớn. Tuy nhiên, trạng thái này xuất hiện khi có các điều kiện sau: Thứ nhất, kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, cải cách chính trị trong nước thất bại, mâu thuẫn xã hội bộc lộ gay gắt..., do đó không đủ sức thực hiện chích sách đối ngoại tích cực; Thứ hai, Trung Quốc tiếp tục đẩy nhanh tốc độ cải cách đổi mới và có những đột phá lớn để trở thành nền kinh tế phát triển nhất, nhì thế giới. Đồng thời, nước này phải tận dụng được sức mạnh kinh tế và vị thế chính trị trong cộng đồng quốc tế để thực hiện giấc mơ bá chủ khu vực.
Như vậy, với những cấu trúc khác nhau trong quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản sẽ dẫn tới những mô hình nhất thể hóa khu vực Đông Á khác nhau. Trên cơ sở phán đoán các khả năng có thể diễn ra, chúng ta thấy, quan hệ tam giác Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản đi theo mô hình “Tam giác lãng mạn” là thích hợp nhất đối với các bên trong giai đoạn hiện nay. Mô hình này, với hiệu quả hợp tác và tính thích ứng của nó, sẽ tiếp tục được duy trì phát triển trong thời gian tiếp theo. Còn mô hình “3 người cùng chung sống” cần trải qua một chặng đường dài và phải giải quyết được những tồn tại trong quan hệ của các bên (nhất là cặp quan hệ Trung - Nhật) thì mới có thể hình thành được. Ngoài ra, khả năng xuất hiện mô hình “Hôn nhân ổn định” phụ thuộc một phần vào chính sách đối ngoại và chiến lược Đông Nam Á của Trung Quốc. Nhưng quan trọng hơn vẫn là sách lược ngoại giao và cách xử lí của ASEAN trong quan hệ với các nước lớn. Còn mô hình “3 người sống độc lập” giữa Trung Quốc, ASEAN và Nhật Bản rất khó có thể diễn ra. Bởi vì, với xu thế toàn cầu hóa trong đó các lợi ích gắn bó chặt chẽ với nhau thì bất cứ một quốc gia hay tổ chức nào đều phải tham gia và tuân thủ các quy tắc trong hợp tác khu vực và quốc tế.
3. Yếu tố quyết định chiều hướng quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản và triển vọng nhất thể hóa Đông Á
Chiều hướng phát triển của quan hệ tam giác Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bảng và triển vọng nhất thể hóa Đông Á được quyết định bởi nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu gồm những yếu tố dưới đây.
3.1. Thực tiễn phát triển của ASEAN
Cùng với những biến đổi sâu sắc ở khu vực Đông Á sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, sắc thái chính trị trong tổ chức ASEAN đã bắt đầu giảm dần, công năng hợp tác kinh tế không ngừng được phát huy. ASEAN đã thực hiện thành công quá trình phát triển mở rộng tổ chức và đến nay đã bao gồm 10 thành viên. Việc ASEAN lần đầu tiên kết nạp một nước theo chế độ XHCN đó là Việt Nam cho thấy quyết tâm của các nhà lãnh đạo trong mục tiêu xây dựng ASEAN trở thành một tổ chức liên kết toàn khu vực đúng như tên gọi của nó. Bước vào thế kỉ 21, với “Tầm nhìn ASEAN năm 2020”, ASEAN đang nỗ lực đóng một vai trò trung tâm trong các diễn đàn quốc tế, thúc đẩy lợi ích chung của khu vực. Mục tiêu chung của ASEAN là, tăng cường ràng buộc về pháp lí cùng với đổi mới bộ máy tổ chức, phương thức để nâng cao hiệu quả hoạt động và thực lực của tổ chức; tích cực thúc đẩy liên kết khu vực để hiệp hội trở thành một tổ chức khu vực năng động về kinh tế, mạnh về chính trị, có vai trò trung tâm trong các cấu trúc đối thoại hợp tác khu vực.
Nhằm thực hiện mục tiêu đề ra, các nước ASEAN đã ban hành Hiến chương ASEAN (có hiệu lực từ 15/12/2008) và quyết định xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với 3 trụ cột: an ninh - chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Hiến chương ASEAN ra đời là một bước phát triển tất yếu, có ý nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy thiết lập Cộng đồng ASEAN nói riêng, triển vọng nhất thể hóa khu vực Đông Á nói chung. Nó đã “chính thức trao cho ASEAN, với tư cách là một tổ chức liên chính phủ, tư cách pháp nhân”([3]), làm cho ASEAN trở thành một chủ thể trong quan hệ đối ngoại để tiếp tục khẳng định địa vị quốc tế của mình. Trên thực tế, trước khi Hiến chương được thông qua, ASEAN vẫn là một tổ chức khu vực lỏng lẻo, mức độ thể chế hóa cơ chế hợp tác còn thấp, các quyết định đưa ra chưa có sự ràng buộc về mặt pháp lí nên hiệu quả thực thi còn hạn chế. Vì xét đến cùng thì ASEAN vẫn là một Hiệp hội ra đời và hoạt động trên cơ sở một tuyên bố chính trị (Tuyên bố Băng Cốc 1967) chứ không phải là một văn kiện mang tính pháp lí. Hiến chương ASEAN, trên nền tảng các giá trị và nguyên tắc tồn tại trong hơn 4 thập kỉ qua, sẽ giúp ASEAN có một cơ sở pháp lí và khuôn khổ thể chế để tăng cường liên kết khu vực, hỗ trợ đắc lực cho các nước thành viên hội nhập phát triển với khu vực và quốc tế, nâng cao vị thế trong quan hệ với các đối tác bên ngoài. Đồng thời, nó cũng sẽ giúp cho ASEAN trở thành một thực thể kinh tế - chính trị ngày càng gắn kết và hoạt động có hiệu quả hơn. Qua đó hỗ trợ đắc lực cho các nước thành viên ASEAN hoàn thành mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN trong 5 năm tới.
ASEAN là một tổ chức khu vực bao gồm nhiều quốc gia có thể chế chính trị, nền văn hóa, tôn giáo khác nhau. Thêm vào đó là trình độ phát triển không đồng đều giữa các nước thành viên, tình hình bất ổn chính trị ở một số nước... đang làm bộc lộ những hạn chế và thách thức nhất định đối với ASEAN trong quá trình phát triển liên kết khu vực. Mặc dù luôn nhấn mạnh thể chế ASEAN là trung tâm, nhưng cơ cấu phối hợp hoạt động của tổ chức ASEAN vẫn chưa thể đạt được mức độ gắn kết cao như Liên minh châu Âu. Có ý kiến còn cho rằng, nguyên tắc “không can thiệp” đã làm giảm vai trò và những nỗ lực của ASEAN trong việc giải quyết các công việc của khu vực như: vấn đề Mi-an-ma, vi phạm nhân quyền, ô nhiễm khói bụi.v.v... Nhận xét này có thể chưa nhìn nhận hết những đặc điểm phức tạp vốn có của khu vực Đông Nam Á, nhưng không phải không có lí. Bởi vì, khi mà ASEAN đang cố gắng xây dựng một cộng đồng liên kết chặt chẽ và ràng buộc nhau hơn thì các thành viên của tổ chức này cần phải có một quan điểm ít cứng nhắc hơn về nguyên tắc nêu trên. Về kinh tế, mô hình phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào thị trường Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, châu Âu,... của một số nước thành viên là nguyên nhân chính làm giảm động lực hợp tác đầu tư và trao đổi thương mại trong nội bộ khu vực. Theo thống kê, tổng kim ngạch thương mại nội bộ trong khối chỉ chiếm trên dưới 20% trong tổng kim ngạch thương mại của khối ASEAN với thị trường bên ngoài. Một số nước, xuất phát từ những tính toán lợi ích của bản thân, thường xuyên áp dụng chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch. Hiện tượng này không những làm giảm tốc độ triển khai và tính hiệu quả của các hiệp định kinh tế đã được kí kết, mà còn ảnh hưởng đến cơ hội và khả năng hợp tác phát triển giữa các thành viên trong khối. Ngoài ra, đây cũng là nguyên nhân làm cho tính bổ sung lẫn nhau trong hợp tác kinh tế của các nước ASEAN bị hạ thấp, ngược lại mức độ cạnh tranh lại rất cao.
Vì vậy, chỉ có thông qua kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích khu vực, giảm mức độ phụ thuộc thị trường bên ngoài... mới có thể giúp ASEAN tăng cường sức mạnh kinh tế nội bộ khu vực để đảm nhận được vai trò chủ đạo trong hợp tác Đông Á. Bên cạnh đó, trên cơ sở Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp đã được các nước thông qua (4/2010), ASEAN cần phải khẩn trương xây dựng một cơ chế hoàn chỉnh, có sức mạnh về mặt pháp lí. Thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp này để tạo nên sự đồng thuận trong việc giải quyết các vấn đề đang nổi lên ở khu vực và quốc tế như vấn đề Biển Đông, sư phân chia và khai thác dòng Mê Kông, các vấn đề thương mại nội khối và giữa ASEAN với các nước bên ngoài.v.v... Đây là một yêu cầu cấp bách vì nó đảm bảo tính thống nhất và đoàn kết trong quá trình đi đến một cộng đồng hợp tác vững chắc của tổ chức ASEAN.
Nếu như các mục tiêu được thực hiện theo lộ trình đề ra, ASEAN sẽ từ một “Hiệp hội” (Association) liên kết hợp tác với cơ cấu lỏng lẻo trở thành một “Cộng đồng” (Community) trong đó mức độ gắn kết giữa các quốc gia càng chặt chẽ hơn. Đây sẽ là bước ngoặt quan trọng làm cho ASEAN trở thành một nhóm hài hoà các dân tộc Đông Nam Á hướng ngoại, sống trong hoà bình, ổn định và thịnh vượng, gắn bó với nhau bằng quan hệ đối tác trong phát triển năng động và trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau([4]). Theo đó, tính hiệu quả hoạt động và năng lực lãnh đạo của tổ chức ASEAN được chứng minh([5]). Các nước lớn trong khu vực Trung Quốc, Nhật Bản... sẽ tiếp tục ủng hộ và công nhận vai trò chủ đạo của ASEAN trong quá trình thúc đẩy hợp tác khu vực. Mô hình “Con đường ASEAN” sẽ trở thành tiêu chí tham chiếu quan trọng cho tiến trình nhất thể hóa khu vực Đông Á. Ngược lại, nếu ASEAN không thể “biến tầm nhìn thành hành động”, tức là không vượt qua được những khó khăn nội tại để xây dựng một Đông Nam Á phát triển thịnh vượng, ổn định dựa trên một Cộng đồng ASEAN, thì tổ chức này sẽ tụt hậu so với những thị trường đang phát triển mạnh mẽ như EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ... Thực lực và uy tín của ASEAN trong khu vực châu Á cũng sẽ bị giảm sút. Ở trường hợp này, ASEAN sẽ tự đánh mất tác dụng trong chính sách cân bằng nước lớn và vai trò lãnh đạo quá trình hợp tác nhất thể hóa Đông Á. Quan hệ tác động, hỗ trợ lẫn nhau trong đó lấy ASEAN làm trung tâm giữa 3 chủ thể Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản sẽ rất khó để tiếp tục tồn tại. Vì vậy, việc định hình cấu trúc quan hệ tam giác Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản và triển vọng nhất thể hóa Đông Á trong tương lai phụ thuộc rất lớn vào thực tiễn thành công hay thất bại của ASEAN.
3.2. Chiều hướng quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản
Quan hệ giữa hai nước lớn Trung Quốc và Nhật Bản được coi là cặp quan hệ song phương quan trọng nhất của khu vực Đông Á. Chiều hướng phát triển tốt hay xấu của mối quan hệ này ảnh hưởng trực tiếp đến tam giác quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản và xu thế hợp tác khu vực Đông Á.
Từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, quan hệ của các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... đã được cải thiện một cách đáng kể. Nhưng giữa các nước này, nhất là quan hệ Trung - Nhật, vẫn còn tồn tại nhiều mâu thuẫn về lịch sử, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, xung đột lợi ích chiến lược... chưa thể đạt được sự giải quyết thỏa đáng. Khi đề cập đến chủ đề nhất thể hóa khu vực Đông Á, có học giả Trung Quốc cho rằng: Sự lựa chọn đúng đắn và trạng thái lí tưởng nhất đó là hai nước Trung Quốc và Nhật Bản trên cơ sở hợp tác bình đẳng, cùng phát huy vai trò lãnh đạo. Sự hòa giải trong quan hệ Trung - Nhật sẽ làm lay chuyển cơ sở mang tính hợp pháp của ASEAN về sức ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo ở khu vực Đông Á, đồng thời sẽ thay đổi cơ bản cấu trúc quan hệ tam giác Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản([6]). Những năm gần đây, các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Nhật Bản đã có những động thái tích cực cho vấn đề thúc đẩy hợp tác nhằm tiến tới xây dựng Cộng đồng Đông Á. Về kinh tế, Tuyên bố chung 3 bên Trung Quốc - Nhật Bản - Hàn Quốc (2009) đã khẳng định cả 3 nước “là những nền kinh tế có sự bổ sung cao và có tiềm năng lớn và sẽ tiến tới hợp tác ở tầm cao hơn nữa trong những lĩnh vực chủ chốt như thương mại, tài chính, đầu tư, sở hữu trí tuệ, hải quan, thông tin, khoa học và công nghệ, năng lượng, bảo vệ môi trường”([7]). Về chính trị, sau thời gian quan hệ căng thẳng([8]), tại cuộc gặp thượng đỉnh vào 5/2008, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Nhật Bản Yasuo Fukuda đã kí thỏa thuận lịch sử “về điểm khởi đầu mới” cho kế hoạch bang giao của hai nước trong tương lai. Tuyên bố nhấn mạnh: “Trung Quốc và Nhật Bản sẽ cùng chia sẽ trách nhiệm lớn vì hòa bình, phát triển của khu vực và thế giới trong thế kỷ 21” ([9]).
Nếu Trung Quốc và Nhật Bản bắt tay nhau trở thành một liên minh kinh tế - quân sự lớn mạnh ở châu Á thì cấu trúc quan hệ “Tam giác lãng mạn” giữa Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản như hiện nay sẽ chuyển sang hình thức “3 người cùng chung sống”. Đồng thời, vai trò lãnh đạo khu vực Đông Á sẽ thuộc về liên minh Trung - Nhật. Theo chúng tôi, với sự phát triển và vai trò ngày càng quan trọng của ASEAN cùng với tính chất phức tạp trong quan hệ Trung - Nhật, tính khả thi của việc thiết lập liên minh Trung - Nhật ở khu vực Đông Á là tương đối thấp. Nhận định này dựa vào những phân tích sau đây.
Khi tìm hiểu quan hệ Trung - Nhật, chúng ta thấy một điều là cả hai cường quốc châu Á này chưa khi nào ngừng mong muốn cùng nhau hợp tác, nhất là về lĩnh vực kinh tế. Nhật Bản cần một thị trường đầu tư, thương mại khổng lồ có sức tiêu dùng lớn và nguồn lao động dồi dào với giá nhân công rẻ như Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc rất cần Nhật Bản ở lợi thế về nguồn vốn đầu tư và trình độ khoa học - công nghệ. Do đó, mặc dù quan hệ chính trị vẫn luôn biến động kể từ sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ (1972), nhưng không làm chệch hướng đi lên của quan hệ kinh tế. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn của Nhật Bản và là nước nhập khẩu lớn thứ hai của Nhật sau Mỹ. Theo lí luận, quan hệ chính trị giữa hai quốc gia sẽ mở đường cho quan hệ kinh tế phát triển. Ngược lại, khi hợp tác lợi ích kinh tế được đẩy mạnh sẽ có tác dụng thúc đẩy quan hệ chính trị càng thân thiết hơn. Thế nhưng, quan hệ Trung - Nhật lại đang mang một đặc điểm đó là: “Kinh tế nóng, chính trị lạnh”. Mặc dù luôn cho rằng hợp tác vì hòa bình và hữu nghị là lựa chọn duy nhất với hai nước, nhưng cả Trung Quốc và Nhật Bản vẫn đang theo đuổi những chiến lược riêng để kiềm chế sức mạnh của đối phương. Nhật Bản lo ngại khi Trung Quốc trở thành một siêu cường kinh tế - quốc phòng sẽ làm ảnh hưởng vị trí của Nhật ở khu vực Đông Á, đồng thời đe dọa trực tiếp đến tình hình an ninh, lãnh thổ của chính nước này. Vì vậy, Nhật đang cố gắng giảm bớt sự phụ thuộc vào Mỹ và các nước phương Tây và tập trung hướng về Đông Á nhiều hơn để củng cố vị trí của mình ở khu vực. Nước này đã bắt đầu chú trọng xây dựng sức mạnh quân sự trong nước với việc đầu tư nâng cấp Cục Phòng vệ thành Bộ quốc phòng (2006). Ngoài ra, với vị thế nền kinh tế lớn của thế giới cộng với ảnh hưởng chính trị ngày càng gia tăng, Nhật Bản đang nỗ lực để có được vị trí thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Về phía Trung Quốc, đất nước đang có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ cùng với nhiều tham vọng này cũng đang tìm mọi cách để loại bỏ những ảnh hưởng có khả năng đe dọa đến những mục tiêu trong tương lai của mình. Vì vậy, Trung Quốc không chấp nhận việc Nhật Bản trở thành thành viên thường trực nắm quyền phủ quyết ở Liên Hợp Quốc. Chỉ tính trong năm 2008, Trung Quốc đã chi tới 85 tỷ USD cho quốc phòng, chiếm 6% tổng kinh phí chi tiêu quốc phòng toàn thế giới và chỉ đứng thứ hai sau Mỹ.
Vị trí ASEAN trong quan hệ Trung - Nhật cũng phản ánh mức độ cạnh tranh giữa hai nước này. Trung Quốc và Nhật Bản (đặc biệt là Trung Quốc) luôn coi quan hệ với các nước ASEAN là ưu tiên hàng đầu của quá trình xác lập quyền lãnh đạo Đông Á. Giới nghiên cứu của Trung Quốc thường có chung lập luận: Quan hệ chặt chẽ của đồng minh Mỹ - Nhật là nhằm mục đích bao vây Trung Quốc và Đông Nam Á là nơi mà Trung Quốc có thể “phá vỡ chiến lược bao vây này”([10]). Quan hệ hợp tác giữa Trung Quốc với ASEAN diễn ra muộn hơn so với Nhật Bản, nhưng các hình thức và mức độ phát triển của nó lại tương đối nhanh. Giữa những năm 90, khi nền kinh tế Nhật Bản đang trong tình trạng suy thoái, mức độ hợp tác với ASEAN giảm mạnh, thì Trung Quốc đã kịp thời có mặt và đáp ứng nhu cầu hợp tác của các nước ASEAN. Nước này đã chớp lấy cơ hội từ cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á (1997-1998) để thực hiện chiến lược đi sâu vào khu vực Đông Nam Á. Với cam kết không giảm giá đồng nhân dân tệ để giúp ổn định tình hình kinh tế và tiền tệ khu vực, viện trợ kinh tế cho một số nước Thái Lan, In-đô-nê-xi-a..., Trung Quốc phần nào tạo được uy tín với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Theo thống kê mậu dịch của Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO), trong năm 1990 các nước ASEAN chủ yếu nhập khẩu từ Nhật Bản (chiếm 24% cơ cấu), nhập khẩu từ Trung Quốc chỉ chiếm 4%. Vậy nhưng đến năm 2006, nhập khẩu từ Nhật đã giảm xuống còn 14%, nhập khẩu từ Trung Quốc đạt mức 14%. Trong khi Nhật Bản còn lúng túng trong việc định hình một cơ chế hợp tác với ASEAN thì Trung Quốc đã nhanh chóng thúc đẩy để có được “Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện Trung Quốc - ASEAN” (11/2002), trong đó cam kết dành nhiều chính sách ưu đãi cho các nước ASEAN([11]). Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/2010 và các chuyên gia kinh tế dự báo, tổng kim ngạch thương mại hai chiều đến năm 2011 sẽ đạt ngưỡng 200 tỷ USD, cao gấp đôi so với năm 2005. Về an ninh - chính trị, Trung Quốc đã gần như có mặt ở hầu hết các cơ chế hoạt động liên quan tới an ninh khu vực như: Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (ASEM), Hội đồng hợp tác an ninh châu Á-Thái Bình Dương (CSCAP).v.v... Sự chủ động, tích cực thúc đẩy hợp tác với ASEAN xuất phát từ những lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị của Trung Quốc, nhưng có lẽ chủ yếu vẫn là những mục tiêu chính trị. Rõ ràng, Trung Quốc đang từng bước thiết lập quyền lãnh đạo hợp tác Đông Á với điểm đột phá đầu tiên là khu vực Đông Nam Á, nơi mà cả Nhật Bản và Mỹ cũng rất coi trọng. Chuyên gia nghiên cứu người Nhật Bản Kojima Tomoyuki cho rằng: Trung Quốc có ý đồ biến Đông Á thành “Thế giới Trung Hoa” nhưng Nhật Bản không yếu đến nỗi bị Trung Quốc nuốt chửng, trừ trường hợp Nhật không có chiến lược đúng đắn([12]).
Tóm lại, sẽ khó có được một sự cải thiện mang tính bước ngoặt trong quan hệ Trung - Nhật để hai nước này cùng đi đến một liên minh vững chắc ở khu vực Đông Á. Có nhiều nguyên nhân làm cho hai nước Trung - Nhật vẫn luôn nghi kị, đề phòng lẫn nhau trong đó chủ yếu bắt nguồn từ những xung đột về lợi ích chiến lược. Chính vì vậy, trong các tuyên bố chung của hai nước Trung Quốc và Nhật Bản cũng chỉ mới dừng lại ở việc duy trì cam kết phát triển một Đông Á dựa trên nguyên tắc cởi mở, minh bạch như là một mục tiêu lâu dài chứ chưa thể đạt được sự đồng thuận mang tính chiến lược về xây dựng Cộng đồng Đông Á([13]).
3.3. Chính sách của Mỹ ở khu vực Đông Á
Tuy không phải là quốc gia thuộc phạm vi Đông Á nhưng dựa vào các hiệp ước đồng minh song phương và quan hệ lợi ích chiến lược với các nước châu Á, Mỹ có vai trò không thể thiếu trong các công việc nội bộ của khu vực Đông Á. Do vậy, quan hệ tam giác Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản chịu ảnh hưởng nhất định từ chính sách Đông Á của Mỹ.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ đã không quan tâm đúng mức tới khu vực Đông Á, đặc biệt là Đông Nam Á. Đây cũng là một nguyên nhân giúp Trung Quốc nhanh chóng có mặt và tạo dựng được sức ảnh hưởng ở Đông Á, nhất là từ sau cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á. Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và chính trị của Trung Quốc khiến cho nguy cơ mất quyền kiểm soát khu vực Đông Á của Mỹ lộ rõ. Vì thế, Mỹ đã tiến hành điều chỉnh một số chính sách tại châu Á trong đó có Đông Á. “Công bố chiến lược an ninh quốc gia” của Mỹ năm 2004 nhấn mạnh: “Một phần quan trọng trong chiến lược của chúng ta là thiết lập một khu vực châu Á - Thái Bình Dương ổn định, thái bình, và thịnh vượng…”([14]). Mỹ không chủ trương đối đầu cạnh tranh mà tiến hành hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc tại khu vực Đông Á, thông qua đó để tăng thêm trách nhiệm của Trung Quốc tại khu vực và quốc tế. Điều này được thể hiện rõ ở lời tuyên bố của Tổng thống George Bush trong chuyến thăm các nước châu Á (8/2008): Hòa bình và tương lai thành công của châu châu Á-Thái Bình Dương phụ thuộc vào quan hệ và sự can dự của cả Mỹ và Trung Quốc. Và gần đây, Tổng thống đương nhiệm Obama tiếp tục khẳng định: “Quan hệ Mỹ - Trung sẽ định hình thức thế kỉ 21”. Bên cạnh đó, Mỹ sẽ tiếp tục tận dụng các nước đồng minh, đặc biệt là Nhật Bản, để tham gia đầy đủ các cơ chế hợp tác và tạo ảnh hưởng của mình ở Đông Á. Nhật Bản và Trung Quốc là những nước rất quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Nếu Nhật Bản là đồng minh chiến lược truyền thống từ xưa nay thì Trung Quốc lại là một trong những đối tác kinh tế lớn nhất của Mỹ ở thời điểm hiện tại. Mọi chính sách hợp tác kinh tế, an ninh - chính trị tại khu vực Đông Á mà Mỹ đề ra sẽ xuất phát từ nhiều căn cứ, trong đó không thể thiếu yếu tố Nhật Bản và Trung Quốc. Do đó, Mỹ sẽ khéo léo điều hòa các mối quan hệ trên cơ sở cân bằng lợi ích chiến lược giữa các nước trong khu vực Đông Á để duy trì một cơ chế hợp tác đa phương có lợi cho mình. Bên cạnh đó, Mỹ tiếp tục duy trì sự căng thẳng ở mức độ thích hợp giữa hai nước Trung - Nhật, vì điều này sẽ phù hợp với lợi ích của Mỹ kể cả trong và ngoài khu vực Đông Á. Theo logic này, Mỹ sẽ tiếp tục ủng hộ vai trò trung tâm trong việc định hình cấu trúc khu vực và thúc đẩy hợp tác của ASEAN trong quan hệ tam giác Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản.
4. Kết luận
Căn cứ vào 4 mô hình của quan hệ “Tam giác chiến lược” đã nêu ở phần đầu, cấu trúc quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản hiện nay tương ứng với mô hình “Tam giác lãng mạn” với vai trò trung tâm của ASEAN. Đây có thể được coi là mô hình có lợi nhất cho các nước ASEAN. Nếu trạng thái quan hệ này không thay đổi thì triển vọng nhất thể hóa Đông Á trong tương lai có thể sẽ phát triển theo hình thức hợp tác: ASEAN+3 (ASEAN+Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) hoặc ASEAN+6 (ASEAN+Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ, New Zealand). Trong đó, ASEAN là người chủ trì khởi xướng và thúc đẩy quá trình vận hành, liên kết các cơ chế hợp tác của khu vực.
Có thể nói, ASEAN đang đứng trước thời cơ thuận lợi nhất trong hơn 4 thập kỉ xây dựng và phát triển để khẳng định vai trò chủ đạo của mình trong tiến trình nhất thể hóa Đông Á, với hai lí do chủ yếu: Một là, việc ban hành Hiến chương năm 2008 vừa cụ thể hóa vai trò và hoàn thiện cơ cấu bộ máy tổ chức, vừa là căn cứ pháp lý để ASEAN phát triển quan hệ hợp tác với các nước trong và ngoài khu vực, đồng thời thể hiện tinh thần đoàn kết, quyết tâm của các thành viên thông qua xây dựng Cộng đồng ASEAN; Hai là, với uy tín và những đóng góp tích của mình, ASEAN đã và đang được cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản,... ủng hộ và đánh giá cao. Ngoài ra, quá trình hợp tác nhất thể hóa Đông Á sẽ được bắt đầu từ các nước Đông Nam Á chứ không thể từ Trung Quốc, Nhật Bản hay Hàn Quốc, vì giữa các nước này đang tồn tại nhiều mâu thuẫn. Tổng thư kí ASEAN Surin Pitsuwan cho rằng: Thế giới công nhận ASEAN giữ vai trò trung tâm của phát triển cộng đồng ở Đông Á. Khi trung tâm tăng trưởng đang chuyển từ Tây sang Đông, từ châu Âu và Bắc Mỹ sang Đông Á, thì ASEAN đóng vai trò quan trọng và thiết yếu trong việc dẫn dắt sự phát triển đó([15]).
NGUYỄN ANH CHƯƠNG
(ThS, Đại học Vinh)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Văn Hà (CB), Quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản trong bối cảnh mới và tác động của nó tới Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2007.
2. Hiến chương của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. http://asean2010.vn/asean_vn/news/34/2DA809/Hien-chuong-cua-Hiep-hoi-cac-Quoc-gia-Dong-Nam-A
3. Trương Uẩn Lĩnh (CB), Trung Quốc với các nước xung quanh: Xây dựng quan hệ đối tác kiểu mới, Nxb. KHXH (Trung Quốc), 2008.
4. Lowell Dittmer, The Strategic Triangle A Critieal Review, llpyeng J.Kin ed., The Strategic Triangle China, the United States and the Soviet Union, New York Paragon House Publisher, 1987.
5. Ngô Vĩnh Long, Đông Nam Á trong quan hệ Mỹ, Nhật và Trung Quốc và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam, Tạp chí Thời đại mới, số 8, 7/2006.
6. Trương Hằng Tuấn (CB), Nghiên cứu quan hệ kinh tế mậu dịch Trung Quốc - ASEAN, Nxb. Nhân dân Giang Tây (Trung Quốc), 2009.
([1]) Lowell Dittmer, The Strategic Triangle A Critieal Review, llpyeng J.Kin ed., The Strategic Triangle China, the United States and the Soviet Union, New York Paragon House Publisher, 1987, p.34.
([2]) Lowell Dittmer, The Strategic Triangle A Critieal Review, llpyeng J.Kin ed., The Strategic Triangle China, the United States and the Soviet Union, New York Paragon House Publisher, 1987, p.35.
([3]) http://asean2010.vn/asean_vn/news/34/2DA803/ Tai-lieu-co-ban-ve-Hien-chuong-ASEAN
([4]) http://asean2010.vn/asean_vn/news/34/2DA808/ Tam-nhin-ASEAN-nam-2020
([5]) Đã có những nghi ngờ về tính hiệu quả và năng lực hoạt động của tổ chức ASEAN. Đơn cử như học giả Hiro Katsumata trong bài viết: Establishment of the ASEAN Regional Forum: Constructing A “Talking Shop” or A “Norm Brewery?, Pacific Review, Vol.19, Issue.2(Jun, 2006), cho rằng tổ chức ASEAN là “nơi bàn chuyện suông”...
([6]) Trương Uẩn Lĩnh, Trung Quốc với các nước xung quanh: Xây dựng quan hệ đối tác kiểu mới, Nxb. KHXH Trung Quốc, 2008, tr.37.
([7]) http://vietnamnet.vn/thegioi/binhluan/200910/
Hoi-dam-
TrungNhatHan-Co-phai-nhung-tuyen-bo-suong-873270/
([8]) Sau chuyến thăm ngôi đền Yasukuni của Thủ tướng Nhật Bản Koizumi năm 2001, mức độ căng thẳng trong quan hệ Trung – Nhật tăng cao. Trong khoảng thời gian từ 2001 đến 2006, Chính phủ hai nước đã ngừng tất cả các cuộc tiếp xúc cấp cao.
([10]) Trần Phấn Quân, Ý nghĩa của việc tăng cường chiến lược hợp tác Trung Quốc - ASEAN, Tạp chí Nghiên cứu chính trị Quốc tế (Trung Quốc), số 1, 2/2004, tr.25.
([11]) Nước này đã đề ra chương trình Thu hoạch sớm (thực hiện từ năm 2004) nhằm giảm thuế cho các mặt hàng nông phẩm mà ASEAN quan tâm; kéo dài thời gian thực hiện FTA đối với các nước Việt Nam, Lào, Mianma và Cămpuchia; viện trợ 5 triệu USD cho chương trình phát triển lưu vực sông Mê Kông.v.v...
([12]) Dẫn theo: Trần Văn thọ, Trung Quốc và Nhật Bản trong trật tự mới ở Á châu, Tạp chí Thời đại mới, số 12, 11/2007.
([13]) Nguyễn Anh Chương, An ninh năng lượng Trung Quốc: Thách thức và những chiến lược, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2(108), 2010, tr.51.